Reginald Herbert Cruise-Wilkins được người được tại quốc đảo Seychelles đặt biệt danh là "Người đàn ông kho báu". Ông đã dành 27 năm cåuộc đời mình cho việc săn lùng khối gia tài kếch xù. Sau Cruise-Wilkins, đến lượt con trai ông là John lại tiếp tục công việc đầy phiêu lưu này.
Hình minh hoạ cướp biển.
Sau nhiều năm miệt mài lùng kho báu, ông John vẫn khiến người ta đi từ bất ngờ này với bất ngờ khác về câu chuyện của ông với ba lô trên lưng, cố gắng xâu chuỗi một câu đố phức tạp.
Ông John giải thích truyền thuyết về kho báu bắt đầu vào năm 1716, khi một người đàn ông Pháp tên Olivier Levasseur được trao quyền điều hành một con tàu tư nhân.
Tuy nhiên, chỉ trong vòng vài tháng, Levasseur đã quyết định chuyển hướng sang một nghề nghiệp mang lại nhiều lợi nhuận hơn: cướp biển.
Năm 1721, Levasseur và 750 tên cướp biển tình cờ nhìn thấy một chiếc tàu chiến Tây Ban Nha thuộc sở hữu của Anh tên Nossa Senhora do Cabo ở bến cảng của đảo Bourbon, nay là đảo La Réunion. Levasseur liền đưa 250 tên cướp lên tàu và giết sạch thủy thủ đoàn để cướp bóc.
Hắn đã rất ngạc nhiên khi tìm thấy số châu báu kếch xù trên tàu.
Theo lời ông John, một nhà sử học đã mô tả con tàu Tây Ban Nha là một "ngôi nhà kho báu nổi trên nước, chứa rất nhiều thanh vàng, bạc, đá quý, kim cương thô, tiền vàng guinea, đĩa thánh và cốc thánh của nhà thờ".
Ông John nhấn mạnh: "Mỗi tên cướp biển được chia 42 viên kim cương và 5.000 thỏi vàng. Ngoài ra còn có một lượng châu báu dôi dư được chia thêm cho đám thủ lĩnh hải tặc".
Tuy nhiên sau đó đám cướp biển cũng đột nhiên "bốc hơi" và người ta tin rằng Levasseur giấu kho vàng của hắn ta trên đảo Mahé ở quốc đảo Seychelles.
Với sử gia John, tìm kiếm kho báu là lẽ sống trong đời.
"Cha tôi cho rằng, Levasseur quản lý một đám thuộc hạ 20 người. Ngay cả thuộc hạ của Levasseur cũng mù mờ trước vị trí chính xác của nơi chôn giấu kho báu. Kho báu này có thể đặt trong một cái hang, được giữ tạm thời, đợi tình hình yên ắng thì Levasseur mới chính thức chôn giấu. Nhóm làm nhiệm vụ chôn giấu kho báu sau đó đã bị ám toán", ông John nói.
Từ đó, không một ai ngoài tướng cướp Levasseur biết vị trí đó nhưng Levasseur cũng bị nhà chức trách bắt và chịu án xử tử vào ngày 7/7/1730 trên đảo La Réunion. Trước khi chết, hắn thoáng nhìn thấy có một số thành viên cướp biển lẩn trong đám đông, nhìn hắn cười đắc chí.
Trước đám đông, Levasseur tung một mảnh giấy lên trời và hét lớn: "Kho báu của ta chỉ dành cho ai có thể hiểu nó".
Mẩu giấy đó là một tấm bản đồ kho báu trong hình dạng một mật mã gồm 17 dòng chữ. Được kiểm tra tính xác thực ngay từ thế kỷ 18 bởi Bảo tàng Anh, bản mật mã là 17 dòng các thứ biểu tượng nằm hết sức lộn xộn.
17 dòng mật mã chỉ dẫn chỗ giấu kho báu của Levasseur.
Levasseur vốn là một nhà trí thức, học giả người Hy Lạp và Latin, rất giỏi trong nghệ thuật dùng ký hiệu tượng trưng.
Vì vậy, ông Cruise-Wilkins đã mất nhiều năm cố gắng giải nghĩa mật mã bằng cách sử dụng tất cả các thông tin có được từ tiếng Hy Lạp, Do Thái, chiêm tinh học, thiên văn học, thần thoại và những điều huyền bí để phá vỡ hệ thống phức tạp của các đầu mối.
Dựa vào những phát hiện của mình, ông Cruise-Wilkins tin rằng mật mã của Levasseur được xây dựng thành một câu đố phức tạp lấy cảm hứng từ 12 Kỳ công của Hercules.
Người đàn ông này cho rằng khối kho báu đang nằm tại khu vực tuyệt đẹp có tên Bel Ombre ở bờ Bắc đảo Mahé, được vây quanh bởi làn nước biển xanh ngắt, thảm thực vật tươi tốt và những hòn đá granite trơn láng do sóng tạo thành.
Mahé là một hòn đảo nhỏ đến mức tất cả người dân đều quen biết nhau. Họ đều có chung một ý nghĩ về khối kho báu kếch xù được cho là đang ở trên đảo kia. "Tôi không quan tâm họ nghĩ gì nhưng rất nhiều người cho rằng 2 bố con tôi bị điên.
Và tất cả đều có cùng một câu hỏi là: Tại sao ông lại săn tìm kho báu? Thời nay người ta không làm những việc như thế nữa.
Ông Reginald Cruise-Wilkins đã săn lùng kho báu suốt 27 năm cuộc đời mình.
Tuy nhiên, đối với ông và người bố quá cố, hành trình truy tìm kho báu không chỉ là cuộc sống mà còn là một sự cam kết về trí tuệ và thể xác mà họ đã trút hết năng lượng và tiền bạc vào.
Ông John đã lục tung hơn 16.000 mét vuông quanh khu vực Bel Ombre, khám phá các khe đá lẫn hang động và phát hiện những dấu vết mà ông cho là do cướp biển để lại trên những tảng đá.
Ông còn tìm thấy cả xương người, súng lục, đạn bi sắt và những pho tượng nhỏ.
Tuy nhiên, việc đào bới của John bị xem là bất hợp pháp khi không được sự cho phép của chính quyền Seychelles. Mặc dù đã tham gia tìm kho báu từ năm 1988, năm 2009, John vẫn bị chính quyền đình lại cho đến khi ông có thể chi ra 250.000 Rupi để lấy giấy phép.
"Chính phủ sở hữu vùng đất này, vì vậy họ được hưởng 50% số tài sản theo luật", ông John nói. Dù vậy, ông nhấn mạnh rằng mình sẽ không bỏ cuộc.