Nếu bạn sử dụng Gmail, từ nay bạn đã có thể đồng bộ hóa e-mail trong hộp thư của mình với máy tính và điện thoại di động thông minh (smartphone) thông qua giao thức IMAP.
Giới thiệu tại Hội thảo Interop New York về lĩnh vực IT ngày 24/10, Matthew Glotzbach, giám đốc phát triển sản phẩm Google Enterprise cho biết những tài khoản sử dụng dịch vụ Gmail đều đã được hỗ trợ giao thức IMAP bên cạnh giao thức POP truyền thống. Ngay từ bây giờ người dùng có thể khai thác IMAP để đồng bộ hóa cho cả máy iPhone và máy tính.
Để sử dụng được tính năng này, người dùng cần thực hiện các bước kích hoạt tính năng IMAP trong tài khoản Gmail cũng như thiết lập cho các thiết bị di động tải được thư xuống. Một khi đã cài đặt đúng cấu hình, tất cả những thay đổi của người sử dụng tạo ra với email dù là trên máy smartphone hay máy tính đều có hiệu lực trên tất cả những thiết bị sử dụng hòm thư chung, vì hầu hết những thay đổi phát sinh được máy chủ lưu trữ tức thời.
Đây cũng là một trong những chức năng bổ sung thuộc chuỗi ứng dụng Google Applications được triển khai từ tháng 2/2007.
Để giúp người sử dụng hiểu rõ hơn, Google đã cho thu hình và đưa lên một video hướng dẫn tại YouTube.
IMAP là gì?
Internet Massage Access Protocol (IMAP) là thế hệ mới của Post Office Protocol (POP). Nói một cách đơn giản, IMAP đặt sự kiểm soát e-mail lên server trong khi nhiệm vụ duy nhất của POP là "ném" toàn bộ thông điệp e-mail về chỗ trình client yêu cầu. Cụ thể, IMAP cung cấp truy cập e-mail theo ba chế độ khác nhau: offline (ngoại tuyến), online (trực tuyến), và disconnected (ngắt kết nối).
Truy cập ở chế độ offline chính là POP, trong đó các thông điệp được truyền đến máy client, xóa khỏi server, và mối liên kết bị ngắt. Sau đó người dùng đọc, trả lời, làm các việc khác ở chế độ ngoại tuyến, và nếu muốn gửi thư mới đi họ phải kết nối lại.
Truy cập online, như tên gọi của nó, là chế độ truy cập mà người dùng đọc và làm việc với thông điệp e-mail trong khi họ đang kết nối với server (kết nối mở). Các thông điệp này vẫn nằm ở server cho đến khi nào người dùng quyết định xóa nó đi. Chúng đều được gắn nhãn hiệu cho biết loại để "đọc" hay "trả lời".
Trong chế độ disconnected người dùng lưu tạm thông điệp ở client, làm việc với chúng, sau đó cập nhật trở lại vào server ở lần kết nối sau. Chế độ này hữu ích cho những ai dùng laptop hay vào mạng bằng liên kết quay số điện thoại, đồng thời không muốn bỏ phí những lợi điểm của kho chứa thư ở server.
Vũ Anh Tú