Nguyên nhân của chứng bệnh hysteria cho tới nay vẫn là một bài toán nan giải của y học
Với tiến bộ của y học hiện nay, hẳn bạn cho rằng không còn chứng bệnh nào mà không truy tìm được nguyên nhân. Chưa chắc! Một trong những chứng bệnh khá phổ biến nhưng vẫn còn là bí mật và do đó chưa có cách điều trị thích ứng chính là chứng cuồng loạn (hysteria).
Căn bệnh mơ hồ
Chứng hysteria đã có từ 4.000 năm trước, nhưng trong khoảng 50 năm qua, cái tên hysteria ngày một ít được nhắc đến. Khoa học về não bộ cũng chưa chú ý nhiều đến chứng bệnh này. Suốt thế kỷ 20, việc tìm kiếm cơ sở thần kinh của bệnh hysteria đã bị bỏ qua. Gần đây, sự tiến bộ về khả năng chụp ảnh bộ não đang hoạt động đã thay đổi tình trạng này. Các nhà khoa học bắt đầu giám sát được các thay đổi trong hoạt động của bộ não. Mặc dù các cơ chế của não bộ đằng sau các triệu chứng bệnh của hysteria vẫn chưa được hiểu đầy đủ, những nghiên cứu mới đã bắt đầu tập trung trở lại vào cơ thể, bằng cách nhận biết các bằng chứng vật lý của một trong số những căn bệnh khó nhận biết, gây tranh cãi và kéo dài nhất này.
Hysteria là một căn bệnh thần kinh nhưng lại là nguyên nhân gây ra nhiều triệu chứng thể chất nên rất khó phát hiện và điều trị đúng. |
Các nhà khoa học chưa nhất trí về việc làm thế nào để phân loại các rối loạn chuyển dạng, và không phải tất cả các bác sĩ đều đồng ý về các tiêu chí chẩn bệnh. Ngành dịch tễ học thì mơ hồ, chỉ có thể đưa ra một con số thống kê phổ biến là: rối loạn chuyển dạng chiếm từ 1 đến 4% của tất cả các căn bệnh ở những bệnh viện phương Tây. Thêm vào đó, bệnh nhân có triệu chứng hỗn tạp ảnh hưởng đến giác quan tự giác hay các chức năng vận động, như mù, liệt hoặc động kinh.
Nguyên nhân thần kinh, triệu chứng thể chất
Vào thế kỷ 17, hysteria được xem là căn bệnh phổ biến thứ hai, sau bệnh sốt. Đến thế kỷ 19, hai nhà thần kinh học người Pháp Jean-Martin Charcot (1825-1893) và Pierre Janet (1859-1947) đã đặt nền móng cho những tiếp cận khoa học tới căn bệnh. Sau đó, học trò của Charcot - một nhà thần kinh học trẻ tuổi tên là Sigmund Freud (1856 -1939) đã thay đổi căn bản nền móng đó, và như một số người nói, ông là người phổ biến thuật ngữ hysteria. Những cải biến của Freud nhằm giải thích tại sao bệnh nhân hysteria bị ngất và lên cơn. Ông đặt ra thuật ngữ "conversion" để mô tả cơ chế mà các xung đột không ý thức và không được giải quyết có thể chuyển đổi thành triệu chứng thể chất. Quan điểm này của Freud đến nay vẫn chưa bị bác bỏ.
Từ 4.000 năm trước, chứng bệnh này đã được miêu tả trên những phù điêu của Hy Lạp cổ đại |
Trong thập kỷ qua, một loạt các nghiên cứu hình ảnh não đã được thực hiện trên những bệnh nhân đang chịu liệt vì chứng hysteria. Các bệnh nhân này có thần kinh và cơ bắp khoẻ mạnh. Vấn đề của họ không nằm ở cấu trúc mà là chức năng: một cái gì đó rõ ràng đang bị hỏng ở những nơi chuyên quản lý khái niệm vận động và ý chí muốn chuyển động.
Không bất ổn tức là… bất ổn
Hai nhà thần kinh học ở Đại học Cardiff (Anh quốc) là Peter W. Halligan và John C. Marshall cùng các đồng sự đã phân tích chức năng não của một phụ nữ bị liệt nửa người bên trái. Khi cố gắng dịch chuyển bên chân bị liệt, vỏ não vận động sơ cấp của cô k
Một hình ảnh chụp bằng máy PET hiển thị hoạt động thần kinh của một não bộ bình thường (hàng trên) và một não bộ bị chứng Alzheimer |
Điều đó giải thích tại sao các vùng cảm xúc này của não chịu trách nhiệm ngăn cản những cử động ở bên chân bị liệt của người phụ nữ. Bệnh nhân này muốn cử động chân, nhưng hành động ý chí đó đã khởi động vùng trán- ổ mắt và kích hoạt vành đai phía trước để huỷ bỏ chỉ thị di chuyển chân. Người phụ nữ muốn di chuyển chân, nhưng cái chân không di chuyển.
Các nghiên cứu sau đó đã củng cố khái niệm rằng các phần của bộ não liên quan đến cảm xúc có thể được kích hoạt không đúng ở bệnh nhân bị rối loạn chuyển dạng và có thể ngăn cản các chức năng bình thường của dây thần kinh phụ trách vận động, cảm giác và tầm nhìn. Những nghiên cứu qua hình ảnh chụp não bộ có thể sẽ là công cụ chẩn đoán hữu ích.
Nhưng điều mà khoa học đồng thuận lại không liên quan đến những gì đã biết về hysteria, mà còn bao nhiêu điều chưa biết về căn bệnh này. Bệnh rối loạn chuyển dạng vẫn khó chẩn đoán. Nếu không có gì bất ổn với bạn, rất có thể bạn đã có sự bất ổn!
Các công nghệ SPECT (Single Photon Emission Computerised Tomography - phương pháp chụp tia X cắt lớp phát photon đơn dòng) và PET (Positron Emission Tomography - chụp tia X cắt lớp phát positron), hiện đã cho phép các nhà khoa học giám sát được các thay đổi trong hoạt động của bộ não. (Ảnh: uni-mainz) |