“Mỗi người nên ăn ít nhất hai bữa cá trong một tuần”, đó là khuyến cáo của Hội Tim mạch học Hoa Kỳ dành cho tất cả mọi người nhất là đối với các thai phụ, các bà mẹ đang cho con bú, những người cao tuổi, các bệnh nhân bị bệnh tim mạch, tăng huyết áp, các bệnh viêm mạn tính như viêm khớp dạng thấp, các bệnh liên quan đến miễn dịch như bệnh hen phế quản, bệnh thận IgA, bệnh Crohn...
Cá, đặc biệt là mỡ cá có chứa nhiều acid béo không no đa nối đôi omega-3 (Ảnh: TTO) |
Một chế độ ăn lý tưởng nhất cho sự phát triển và hoạt động của não, cho chức năng sinh lý màng tế bào, chức năng miễn dịch và bảo vệ của cơ thể là tỷ lệ acid béo không no omega-3/omega-6 là 1-3/1. Omega-3 có nhiều trong cá, đặc biệt là mỡ cá, tôm, cua, tảo sinh vật phù du.
Omega-6 có trong thịt động vật, nhất là động vật nuôi, hầu hết các loại dầu thực vật. Mặc dù cũng là một acid béo không no thiết yếu, nhưng omega-6 không có những đặc tính có lợi cho não, cho các phản ứng viêm và các phản ứng miễn dịch như omega-3.
Não người được cấu tạo bởi trên 60% là acid béo, chúng là thành phần cơ bản của màng tế bào, bảo đảm cho mọi hoạt động chức năng của tế bào thần kinh. Trong thời kỳ bào thai, từ tháng thứ 3 đến tháng thứ 6, não bộ hình thành và phát triển.
Nếu người mẹ được cung cấp tỷ lệ cân đối giữa omega-3 và omega-6 sẽ bảo đảm cho tế bào não phát triển tốt, điều này ảnh hưởng tới trí thông minh của trẻ sau này. Ở người trưởng thành, chế độ ăn cung cấp đủ omega-3 đã làm giảm được tỷ lệ bệnh trầm cảm, các hoạt động chức năng thần kinh linh hoạt hơn.
Omega-6 trong thành phần cấu tạo màng tế bào, tham gia vào cơ chế hình thành prostaglandin và leukotrien dưới tác dụng của cyclooxygenase và lypoxygenase. Đây là các chất tham gia vào cơ chế gây viêm, nhất là các quá trình viêm mạn tính, gây tăng quá trình đông máu do làm tăng kết dính tiểu cầu và co mạch, tạo thuận lợi cho nhồi máu cơ tim, nhồi máu não, tăng quá trình tổng hợp interleukin-1, yếu tố hoại tử khối u (TNF) và các cytokin khác liên quan đến các bệnh tự miễn dịch như viêm khớp dạng thấp, hen phế quản, bệnh cầu thận mạn tính, bệnh viêm loét đại trực tràng (bệnh Crohn), bệnh vảy nến.
Từ khoảng 100-150 ngàn năm nay, loài người đã thay đổi thói quen chuyển từ ăn nhiều thủy hải sản sang ăn nhiều thịt động vật, các loại hạt và dầu thực vật, làm cho tỷ lệ omega-3/omega-6 vào khoảng 1/30-50. Sự mất cân đối này dẫn tới dễ sản sinh quá mức các prostaglandin, leukotrien, các cytokin. Điều này dẫn tới quá trình viêm tiến triển mạn tính, khởi phát và duy trì các bệnh tự miễn và các bệnh có cơ chế miễn dịch.
Các nghiên cứu ở cả động vật và người trong vòng 20 năm nay cho thấy khi ăn chế độ ăn nhiều omega-3 (thực phẩm thủy hải sản) thì thấy omega-3 thay thế omega-6 trong cấu trúc màng của tất cả các tế bào (tế bào thần kinh, hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, tế bào nội mạc mạch máu, tế bào xơ non, tế bào lưới, tế bào gan...). Sự cạnh tranh giữa omega-3 và omega-6 đã làm giảm hẳn các chất trung gian gây viêm, các yếu tố làm khởi phát và gây rối loạn miễn dịch.
Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy rõ lợi ích của việc sử dụng omega-3 (chế độ ăn cá thường xuyên > 3 bữa/tuần) đã làm giảm tỷ lệ bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim, giảm tần số loạn nhịp thất. Những người có nồng độ omega-3 trong máu cao (nhóm ăn thủy hải sản) giảm được 80% nguy cơ đột tử do tim và giảm 34% nguy cơ bị bệnh mạch vành tim so với người có nồng độ omega-3 trong máu thấp (nhóm chứng).
Omega-3 còn làm giảm mỡ máu, giảm triệu chứng viêm khớp dạng thấp, giảm mức độ nặng và số cơn hen phế quản, làm chậm tiến triển của bệnh thận IgA và viêm cầu thận màng tăng sinh týp 2, giảm triệu chứng của bệnh vảy nến, viêm loét đại trực tràng (bệnh Crohn).
Chính vì vậy ăn cá mỗi tuần 2-3 bữa mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe.