Đô Giang Yển là công trình thủy lợi quy mô lớn được xây dựng tại Trung Quốc từ thời cổ đại, trải qua hơn 2.200 năm đến nay vẫn được sử dụng.
Mưa lớn kéo dài từ đầu tháng 5 tại miền nam Trung Quốc, với lượng mưa được ghi nhận phá kỷ lục 80 năm ở nước này, ảnh hưởng đến đời sống của hàng triệu người dân.
Trong khi mưa lớn khiến mực nước nhiều sông hồ dâng cao vượt mức cảnh báo, gây ra các trận lũ lụt nghiêm trọng ở nhiều địa phương dọc sông Dương Tử (Trường Giang), khả năng điều tiết nước lũ của đập Tam Hiệp - công trình thủy lợi trị giá 25 tỷ USD - lại được đặt nghi vấn.
Nhà khoa học thủy văn người Hoa Wang Weiluo, hiện sống và làm việc tại Đức, hồi tháng 6 nêu nghi vấn về sự an toàn của đập, đồng thời cảnh báo con đập này có thể sụp đổ bất kỳ lúc nào.
Trong khi đó, trả lời Thời báo Hoàn Cầu vào tháng 7 năm ngoái, ông Guo Xun - chuyên gia tại tại Viện Cơ học Công trình thuộc Cục Động đất Trung Quốc, khẳng định đập Tam Hiệp là dự án "tuyệt đối an toàn, có thể tồn tại đến 1.000 năm" và "ngoại trừ trọng lực của Trái đất, không một sức mạnh bên ngoài nào - kể cả lũ lụt hay động đất - có thể làm đập biến dạng".
Dù chất lượng của dự án Tam Hiệp vẫn là đề tài gây tranh cãi trên nhiều diễn đàn, khả năng thực hiện các công trình thủy lợi kỳ vĩ của người Trung Quốc - dù chỉ với công nghệ thô sơ - đã được chứng minh từ lâu.
Đô Giang Yển là công trình thủy lợi được cha con Lý Băng - thái thú quận Thục, thuộc nước Tần trong thời kỳ Chiến Quốc ở Trung Quốc - khởi công và hoàn thành trong khoảng thời gian 256-251 TCN.
Trải qua hàng ngàn năm được các triều đại khác nhau tu sửa, bảo trì, công trình này đến nay vẫn đóng vai trò thủy lợi quan trọng đối với tỉnh Tứ Xuyên.
Đô Giang Yển được xây dựng trên sông Mân (Mân Giang) - nhánh lớn nhất ở thượng nguồn của sông Dương Tử. Con sông này là nguồn cấp nước quan trọng của vùng đồng bằng Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên.
Đến năm 1998, diện tích tưới tiêu của Đô Giang Yển đạt 668.7 nghìn hecta, bao phủ phạm vi hơn 40 huyện ở Tứ Xuyên.
Nguồn gốc Đô Giang Yển
Sự hình thành dự án Đô Giang Yển mang những nguyên nhân lịch sử đặc thù. Thời kỳ Chiến Quốc là giai đoạn các nước chư hầu dưới trướng thiên tử nhà Chu giao tranh ác liệt để tranh giành quyền lực.
Nhà Tần, với sự xuất hiện của nhà cải cách Thương Ưởng, đã trở nên thịnh vượng và hùng mạnh. Tần xác định các vùng đất Ba, Thục có địa vị chiến lược trong kế hoạch thống nhất 6 nước còn lại.
Tướng Tần Tư Mã Thác tin rằng "Có được [đất] Thục là sẽ chiếm được [nước] Sở, Sở vong thì thiên hạ sẽ thu về [Tần]". Lý Băng, một người am hiểu về thiên văn, địa lý, được Tần Chiêu Tương Vương - ông cố của Tần Thủy Hoàng - bổ nhiệm là thái thú quận Thục trong bối cảnh như vậy.
Nỗ lực kiểm soát lũ lụt và phát triển hệ thống tưới tiêu Đô Giang Yển mà Lý cùng người dân bản địa thực hiện tại Mân Giang đã giúp phát triển nông nghiệp ở miền tây Tứ Xuyên, nâng cao đời sống cộng đồng dân cư ở đồng bằng Thành Đô, và đặt nền tảng kinh tế cho Tần thống nhất Trung Quốc.
Dự án Đô Giang Yển được tạo nên bởi ba thành tố. Miệng cá để phân dòng nước, Phi Sa Yển để phân luồng chia lũ và xử lý đất cát, và Bảo Bình Khẩu là cửa vào nước, giúp thực hiện hài hòa các chức năng về kiểm soát lũ lụt, bảo đảm tưới tiêu, lẫn duy trì giao thông đường thủy.
Mô phỏng trong khu du lịch Đô Giang Yển về các công cụ được sử dụng từ thời cổ đại ở Tứ Xuyên để điều tiết nước và phòng chống lũ ở Mân Giang. (Ảnh: PV).
Quá trình xây dựng, bảo trì tiếp nối hàng ngàn năm
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử với nhiều tên gọi khác nhau, từ thời nhà Tống, công trình mà người Trung Quốc ca ngợi là "ngàn năm bất diệt" này mới được đề cập bằng tên Đô Giang Yển.
Trang NetEase (Trung Quốc) mô tả, hệ thống của Đô Giang Yển lợi dụng tốt các điều kiện địa hình đặc thù của khu vực để thực hiện việc dẫn nước, tự động tưới tiêu, tạo ra sự tương hỗ giữa hoạt động phân luồng, xả lũ, lọc cát, kiểm soát dòng chảy, phát huy vai trò xã hội to lớn.
Hệ thống điều tiết "thuận tự nhiên" này giúp cho hệ sinh thái ở Mân Giang phát triển được tự nhiên, sông vẫn chảy thay vì bị chặn lại bởi một con đập ngang trên dòng sông.
Vào năm thứ sáu triều Hán Vũ Đế, sử gia Tư Mã Thiên từng khảo sát thực địa Đô Giang Yển.
Đến năm 228, thừa tướng Thục Hán thời Tam Quốc là Gia Cát Lượng trong công cuộc bắc chinh của mình đã coi Đô Giang Yển là trụ cột để phát triển kinh tế nhà nước và bảo đảm nông nghiệp. Nhà chức trách lần đầu tiên huy động đội quân 1.200 người để bảo vệ công trình.
Khổng Minh cũng thiết lập chức Yển quan giữ vai trò quản lý và vận hành đập - mở ra lịch sử hàng nghìn năm cho vị trí chuyên trách này.
Khi công nghệ phát triển và phạm vi tưới tiêu được mở rộng, từ năm 1936, các kết cấu bằng vữa và bê tông bắt đầu được sử dụng để gia cố Đô Giang Yển. Dù hạ tầng thủy lợi được gia tăng và cải tiến, chiến lược phòng chống lũ của công trình không có thay đổi so với 2.000 năm trước đó.
Năm 1949, Quân giải phóng nhân dân (PLA) tiến quân vào Tứ Xuyên. Tướng Trung Quốc Hạ Long ra lệnh tiến hành tu sửa Đô Giang Yển. Hơn 1.500 quân nhân Trung Quốc tham gia chiến dịch, hoàn thành vào tháng 3/1950.
(Ảnh: PV).
Công trình trọng điểm quốc gia
Ngày nay, Đô Giang Yển được ghi nhận là có địa vị và vai trò to lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa đối với nước này, đồng thời được ca ngợi là một "điển phạm của thế giới về quản lý thủy lợi".
Năm 1982, Đô Giang Yển - thành phần quan trọng trong khu danh thắng Đô Giang Yển-núi Thanh Thành, được Quốc vụ viện Trung Quốc phê chuẩn đưa vào danh sách danh thắng cấp quốc gia đầu tiên. Đến năm 2007, khu thắng cảnh này trở thành điểm du lịch cấp 5A quốc gia của Trung Quốc.
Trong khi những công trình quy mô lớn với công nghệ hiện đại - bao gồm đập Tam Hiệp - tiếp tục đón nhận nhiều tranh luận trái chiều về hiệu quả điều tiết cũng như mức độ an toàn, Đô Giang Yển hiện nay vẫn nổi lên như một hình mẫu về chiến lược trị thủy - vừa kiểm soát dòng nước, vừa bảo đảm dân sinh. Những giá trị của công trình này giúp Đô Giang Yển cùng núi Thanh Thành được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới vào năm 2000.
(Ảnh: Baidu).