Đêm Trừ tịch theo quan niệm xưa còn được gọi là đêm giao thừa. Vậy thực chất đêm Trừ tịch là gì và những điều cần chú ý trong đêm Trừ tịch như thế nào thì mời các bạn cùng tham khảo bài viết sau đây nhé.
Đêm Trừ tịch là gì?
Đêm trừ tịch, còn được gọi tên là đêm ba mươi, là khoảng thời gian trước nửa đêm, thời khắc giao thừa giữa năm mới và năm cũ.
Đêm trừ tịch là khoảng thời gian thiêng liêng nhất của năm khi các gia đình xum họp, chuẩn bị đón năm mới với những điều tốt lành sẽ đến và tiễn trừ năm cũ.
Đêm trừ Tịch với "trừ" nghĩa là thay đổi, hoán đổi và "tịch" là đêm, "trừ tịch" nghĩa là "đêm của sự thay đổi" đêm của thời khắc giao thời.
Đêm trừ tịch là đêm cuối năm rất tối trời, "lễ trừ tịch (trừ là bỏ đi, tịch là chiếu) tức là "lễ thay chiếu) tối trời như đêm ba mươi". Bởi vậy, đêm trừ tịch được coi là khoảng thời gian của sự yên nghỉ, giũ bỏ những muộn phiền, là đêm của tĩnh lặng và thiêng liêng. Trong đêm trừ tịch vào trước nửa đêm, người ta lo quét dọn sạch sẽ những gì là nhơ bẩn, dọn sạch những phiền muộn, bất hoà của đời sống để chuẩn bị cho một ngày mới bắt đầu của năm mới.
Lễ Trừ tịch
Lễ trừ tịch cử hành vào giờ Tý (11 giờ đến 1 giờ), khoảnh khắc bao hàm trong nó một giờ của năm cũ và một giờ của năm mới. Lễ trừ tịch thường được các gia đình thắp hương trước bàn thờ tổ tiên, cúng trừ tịch với mâm xôi với con gà trống luộc hoặc mâm xôi với chân giò lợn.
Trong lễ này tại gia đình, người ta nhắc đến công ơn trời đất, tổ tiên, tạ lỗi cùng cha mẹ, làm hoà với nhau, trút bỏ điều xấu và hứa hẹn những điều tốt đẹp sẽ thực hiện. Dù không có tôn giáo nào hay chẳng có gia đình để sum họp, trong giờ khắc thiêng liêng đó mọi người cũng thường rủ nhau đến chùa, đến nhà thờ hay nơi linh thiêng nào đó để thắp nén nhang và hái lộc đầu năm.
Mâm cỗ đầy đặn và sinh động với rất nhiều màu sắc của đồ ăn thức uống như bánh chưng, con gà luộc...
Những lưu ý trong lễ Trừ tịch
Người xưa cho rằng có mười hai vị Hành khiển, Phán quan nhà trời tượng trưng cho 12 con giáp từ năm Tí (con chuột) đến năm Hợi (con lợn), luân phiên trông coi việc dưới hạ giới. Cứ sau mỗi chu kỳ 12 năm lại quay trở về vị Hành khiển đầu tiên. Các quan nhà trời đều có ông Thiện và ông Ác. Ông Thiện chuyên phù hộ những điều tốt đẹp cho con người, còn ông Ác gây ra hạn hán, lụt lội, mất mùa, đói kém. Việc lành hay việc dữ là do sớ tấu của các quan Hành khiển, Ngọc hoàng dựa trên sớ tấu đó mà ban phúc hay trừng phạt con người.
Với quan niệm như thế, người xưa làm lễ rất cẩn trọng. Đúng lúc nửa đêm, quan cũ giao lại công việc, quan mới tiếp nhận. Vào thời điểm này, mọi gia đình đều bày cỗ ra ngoài trời để cúng hai đoàn các quan. Ngày xưa, thậm chí các vị chức sắc ở thôn, xã cũng phải thiết lập hương án chào lạy các quan trời ở nơi trung thiên, ở sân đình, ở văn chỉ, vàng hương, trầu, rượu, hoa quả, xôi gà; tế lễ trọng thể với trống chiêng vang dậy đêm khuya.
Ngày nay, nhiều người không thật hiểu ý nghĩa của lễ Trừ tịch. Một số cách hiểu cho rằng cúng ngoài trời lúc giao thừa là cúng chúng sinh. Theo quan niệm đó, khi gia tiên được ăn cỗ trong nhà thì ở ngoài chúng sinh, ma đói không biết ăn tết ở đâu, do vậy muốn được yên ổn cả năm mới thì nhất thiết phải có mâm cỗ cúng chúng sinh.
Một số gia đình chỉ biết cúng lễ, vái tứ phương, thậm chí chẳng biết khấn Đương niên, Bản cảnh Thành Hoàng. Ý nghĩa thực của lễ Trừ tịch mà ta quen gọi là cúng giao thừa đã dần dần phai nhạt. Xét đến cùng, dù rằng ý nghĩa của việc cúng ngoài trời có biến đổi thế nào đi nữa thì phong tục cổ truyền này vẫn mang ý nghĩa triết học và nhân văn cao đẹp. Hiểu là lễ các quan nhà trời hay lễ chúng sinh đều được, điều cốt yếu là con người ngày thường cư xử phải đạo, không hổ thẹn với các thế lực tâm linh.
Xuất phát từ nguyên nhân đó mà ngay từ xa xưa, cổ nhân đã có nhiều câu chuyện răn đời để người ta hiểu rằng: các vị Hành khiển, Phán quan, mặc dù phút bàn giao bận rộn khẩn trương nhưng vì là người nhà trời nên chư vị có tài thấu hiểu ngay ruột gan của gia chủ. Nếu có ý cầu lợi, mua chuộc, đút lót, các vị chỉ nhìn dấu hiệu ở khói hương, lửa đài là biết ngay, không thèm ngó ngàng gì đến vật cúng giao thừa của các gia chủ ấy. Trái lại, những gia đình chân chất, thật thà, ăn ở tử tế thì có khi chỉ cần chén rượu, nén hương, tuy đồ lễ đơn sơ nhưng các vị quan vẫn vui vẻ thưởng thức, dốc lòng phù hộ.
Vào những giờ phút giao thừa gần kề, mọi nhà chuẩn bị sắp lễ đưa ra ngoài trời để cúng. Mâm cỗ đầy đặn và sinh động với rất nhiều màu sắc của đồ ăn thức uống như đĩa xôi, con gà luộc, hoa quả, bánh kẹo… Và hơn lúc nào trong giờ phút ấy để người dân bày tỏ lòng thành kính, sự biết ơn và ước nguyện về một năm mới sẽ tốt đẹp, may mắn.
Trước giờ Tý phải làm lễ tiễn quan đương niên cũ, sau đó đón quan đương niên mới. Đến đầu giờ Tý thì xong để chuẩn bị đón Giao thừa. Mỗi năm có một vị quan Đương niên cai quản, nên việc làm sớ tấu cũng như lễ vật cần phải chú ý. Chúng tôi xin giới thiệu để các bạn tham khảo và thực thi:
Năm Tý
Quan Đương niên là Chu vương Hành khiển. Thiên Ôn hành binh Chi Thần, Lý Tào phán quan.
Lễ vật: Ngoài trầu rượu, xôi bánh còn thêm áo màu vàng.
Năm Sửu
Triệu vương Hành khiển. Tam thập lục thương hành binh chi thần. Khúc Tào phán quan.
Lễ vật là áo đỏ.
Năm Dần
Ngụy vương Hành khiển. Mộc tinh hành binh chi thần, Tiêu Tào phán quân.
Lễ vật là áo màu trắng.
Năm Mão
Trịnh vương Hành khiển, Thạch tinh hành binh chi thần, Liễu Tào phán quan.
Lễ vật là áo màu đen.
Năm Thìn
Sở vương Hành khiển, Hỏa Tinh hành binh chi thần, Hứa Tào phán quan.
Lễ vật là áo màu vàng.
Năm Tỵ
Ngô vương Hành khiển, Thiên Hao hành binh chi thần, Vương Tào phán quan.
Lễ vật là áo màu tía.
Năm Ngọ
Tuần vương Hành khiển. Ngũ Đạo hành binh chi thần, Lâm Tào phán quan.
Lễ vật là áo màu vàng.
Năm Mùi
Tống vương Hành khiển, Ngũ Đạo hành binh chi thần, Lâm Tào phán quan.
Lễ vật là áo màu vàng.
Năm Thân
Tế vương Hành khiển, Ngũ Miếu hành binh chi thần, Tống Tào phán quan.
Lễ vật là áo màu trắng.
Năm Dậu
Lỗ vương Hành khiển, Ngũ Nhạc hành binh chi thần, Thành Tào phán quan.
Lễ vật là áo màu hồng.
Năm Tuất
Việt vương Hành khiển, Thiên Bá hành binh chi thần, Thành Tào phán quan.
Lễ vật là áo màu hồng.
Năm Hợi
Lu vương Hành khiển, Ngũ Ôn hành binh chi thần, Nguyễn Tào phán quan.
Lễ vật là áo màu vàng.
Ngoài lễ vật: Hương, hoa, trầu, rượu, bánh, xôi, gà còn thêm áo, tiền, vàng, giấy… để đưa tiễn hoặc đón tiếp các vị Hành khiển hàng năm.
*Cần lưu ý: Khi dâng hương ngoài trời cúng Giao thừa đều phải khấn danh vị của các vị Hành Khiển cùng các vị Phán quan nhắc đến ở trên. Năm nào thì khấn danh vị của năm ấy.
Sau khi lễ tiễn quan đương niên cũ, sẽ tiến hành lễ đón quan đương niên mới. Lễ vật cũng được chuẩn bị trước (gà lễ thường là cả con, giữ nguyên bộ lòng đặt trên miếng tiết, lại cài cánh tạo thế gà chầu khiến nghi lễ thêm phần long trọng), và đúng giờ phút Giao thừa sẽ tiến hành thắp đèn nhang, làm thủ tục lễ, đọc văn khấn. Trước khi khấn vái 4 vái, và khi khấn xong lại vái 4 vái.
Với mâm cỗ cúng giao thừa ngoài trời số lượng và chất lượng cũng phụ thuộc vào từng vùng miền khác nhau, vào sự giàu có, sung túc hay khó khăn của mỗi gia đình. Những nhà khá giả sẽ sắm sửa mâm cỗ cúng đầy đủ với các lễ vật, món ngon, sơn hào hải vị… để tiếp đón các vị quan thần và mong muốn sẽ có một cuộc sống giàu có hơn, phú quý hơn. Còn với các gia đình cơ hàn, vất vả quanh năm ruộng vườn, đồng áng thì chút “lễ mọn” như cây nhà lá vườn cũng là để gửi gắm cả tấm chân tình, sự tôn kính và ước nguyện cho năm mới với những điều may mắn, sức khỏe đến với mọi thành viên trong gia đình.
Cuộc sống ngày nay có nhiều thay đổi nhưng lễ cúng giao thừa ngoài trời từ thôn quê đến thành thị vẫn được lưu giữ. Không chỉ là vấn đề tâm linh mà đó còn là nét đẹp trong văn hóa cội nguồn dân tộc.
Sau lễ cúng ngoài trời, mọi gia đình mới bắt đầu lễ cúng trong nhà. Cúng giao thừa trong nhà là lễ cúng tổ tiên vào chính thời khắc giao thừa vừa tới, nhằm cầu xin tổ tiên phù hộ độ trì cho gia đình mình gặp những điều tốt lành trong năm mới.
Mâm lễ bao gồm các món ăn mặn ngày tết được chế biến tinh khiết, trang nghiêm. Cỗ mặn gồm: bánh chưng, giò chả, xôi đậu xanh, thịt gà, các món mặn khác tùy nhu cầu gia đình. Cỗ ngọt gồm bánh kẹo, mứt tết, các loại đồ uống...
Khi cúng giao thừa trong nhà, tất cả các thành viên trong gia đình đứng trang nghiêm trước bàn thờ, khấn tổ tiên để xin được các cụ phù hộ độ trì trong nhà mới, cầu an khang, thịnh vượng, sức khỏe tốt. Trước khi khấn tổ tiên để mời tiền nhân về ăn tết cùng với con cháu hậu thế, các gia chủ khấn Thổ Công, tức là vị thần cai quản trong nhà để xin phép cho tổ tiên về ăn tết.
Người xưa có các bài văn khấn giao thừa dành cho ngoài trời và trong nhà riêng biệt. Ngày nay, có nhiều bài văn khấn khác nhau tùy theo lựa chọn của mỗi gia đình. Việc này không quá quan trọng, căn bản vẫn là sự thành tâm. Sau khi gia trưởng khấn lễ xong thì các thành viên trong gia đình lần lượt theo thứ tự tới chắp lễ trước bàn thờ hay mâm cúng. Khi các nghi lễ cúng kết thúc cũng là lúc năm mới hội hè bắt đầu.
Một tục lệ mà từ xưa đến nay, ở cả nông thôn và thành thị vẫn còn giữ đó là tục đi lễ chùa, hái lộc và xông đất sau lễ cúng Giao thừa.