Bệnh nhân thể trạng gầy, suy dinh dưỡng, kèm suy giảm chức năng thận hay gan, tim... dễ nhạy cảm với liều gây độc của thuốc tê.
Thuốc tê là một loại thuốc dùng để ức chế tạm thời dẫn truyền thần kinh, có hồi phục. Đây là một trong những loại thuốc thiết yếu được dùng rất rộng rãi trong y khoa như phẫu thuật, can thiệp từ nhỏ đến lớn.
Hầu hết trường hợp dùng thuốc tê đều an toàn nếu như kỹ thuật viên tôn trọng các nguyên tắc an toàn như liều sử dụng, phương pháp gây tê, yếu tố cơ địa của từng người bệnh...
Khi đưa thuốc tê vào cơ thể, một phần thuốc được hấp thu vào mạch máu. Nồng độ thuốc tê trong máu đạt đến một ngưỡng nhất định sẽ gây ra biểu hiện trên lâm sàng gọi là ngộ độc thuốc tê toàn thân. Nồng độ thuốc tê trong máu phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó liều thuốc, vùng gây tê, tốc độ bơm thuốc là những yếu tố quan trọng. Việc vô tình bơm một lượng thuốc tê trực tiếp vào mạch máu là nguyên nhân của hầu hết trường hợp ngộ độc thuốc tế.
Ngoài yếu tố về liều thuốc sử dụng thì các yếu tố cơ địa của từng người bệnh cũng ảnh hưởng lớn tới tính độc của thuốc tê. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng và mức độ nặng của ngộ độc thuốc tế. Nhóm người bệnh có nguy cơ ngộ độc cao là bệnh nhân thể trạng gầy, suy dinh dưỡng, mắc các bệnh kèm theo như suy giảm chức năng các cơ quan thận, gan, tim... Trẻ em dưới 6 tháng tuổi, người già cũng là những người dễ nhạy cảm với liều gây độc của thuốc tê.
Gây tê cho bệnh nhân chuẩn bị phẫu thuật. (Ảnh: A.T).
Dù có tôn trọng tất cả nguyên tắc an toàn khi gây tê thì khả năng ngộ độc vẫn có thể xảy ra, nhất là khi người gây tê không phải trong chuyên ngành gây mê hồi sức. Một số người bệnh có sự nhạy cảm với tính độc thuốc tê dù dùng liều nhỏ. Tình trạng nhạy cảm này có thể liên quan đến rối loạn chuyển hóa do thiếu hụt một số men, hoàn toàn khác với hiện tượng phản ứng phản vệ theo cơ chế miễn dịch.
Ngộ độc thuốc tê là tình trạng độc tính thuốc tê ảnh hưởng lên toàn thân, nổi trội ở hệ thần kinh trung ương và hệ tuần hoàn. Những triệu chứng ngộ độc ở hệ thần kinh trung ương bao gồm các biểu hiện kích thích từ nhẹ đến nặng như: bứt rứt, khó chịu, nhìn đôi, thay đổi vị giác, nói nhảm, co giật nhóm cơ ở vùng đầu mặt cổ, co giật toàn thân; hoặc ức chế (lơ mơ, giảm đáp ứng, ngủ gà, thậm chí hôn mê).
Các triệu chứng ngộ độc thuốc tê ở hệ tuần hoàn bao gồm biểu hiện kích thích trong giai đoạn đầu như huyết áp tăng , tim đập nhanh, vã mồ hôi. Biểu hiện ức chế trong giai đoạn muộn như nhịp tim chậm, rối loạn dẫn truyền thần kinh tim, huyết áp tụt và nặng nhất là ngưng tuần hoàn.
Một trường hợp ngộ độc thuốc tê điển hình thông thường bắt đầu bằng các dấu hiệu thần kinh từ nhẹ đến nặng, tiếp theo đó là các rối loạn về tuần hoàn. Khi gặp một trường hợp ngộ độc điển hình thì nhân viên y tế có thể dễ dàng chẩn đoán cho các lần sau với dấu hiệu tương tự. Tuy nhiên, có đến 40% trường hợp ngộ độc thuốc tê có biểu hiện triệu chứng lâm sàng không điển hình. Những trường hợp nặng lại chỉ có các biểu hiện ở hệ tuần hoàn. Chính vì thế nên trong phác đồ xử lý của Hội Gây tê vùng và Giảm đau Mỹ năm 2018 khuyến cáo tất cả tình trạng thay đổi về tính thần kinh hay tuần hoàn trong khi sử dụng thuốc tê cần phải nghĩ tới nguyên nhân ngộ độc.
Khi bệnh nhân có các biểu hiện ngộ độc, cần ngưng ngay lập tức việc tiêm thuốc tê và xử lý theo phác đồ điều trị với biện pháp ưu tiên hàng đầu là truyền tĩnh mạch dung dịch nhũ tương lipid 20%. Một vấn đề đáng lo ngại là sự ngộ nhận về “sốc phản vệ thuốc tê" ở người đang sử dụng thuốc tê trong công việc hàng ngày, nhất là những người không thuộc chuyên ngành gây mê hồi sức.
Sự thực thì thuốc tê rất hiếm gây ra tình trạng phản ứng phản vệ có thể nguy hiểm đến tính mạng. Rất nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh rằng “sốc phản vệ thuốc tê” rất hiếm gặp hoặc thực sự không có. Bệnh lý của ngộ độc thuốc tê (tính độc thuốc tê theo liều lượng và cơ địa) khác hoàn toàn với “sốc phản vệ” (phản ứng phản vệ thông qua cơ chế miễn dịch không phụ thuộc vào liều). Do đó phác đồ điều trị khác nhau. Việc ngộ nhận có thể dẫn tới sử dụng phác đồ điều trị sai, gây hậu quả nghiêm trọng.