Nhím (Porcupine) là loài động vật lớn, di chuyển chậm chạp thuộc bộ gặm nhấm với những lông gai sắc nhọn ở đằng sau lưng. Chúng thường sinh sống ở khắp các châu lục, ngoại trừ Nam Cực.
Các nhà khoa học chia loài Nhím thành hai nhóm khác nhau:nhím Hystricidae (Old World porcupines) sống ở châu Phi, châu Âu, châu Á và nhím Erethizontidae(New World porcupines) sống ở Bắc Mỹ và Bắc Nam Mỹ. Nhím Bắc Mỹ là loài duy nhất được tìm thấy sinh sống ở Canada và Hoa Kỳ.
Lông gai Nhím
Tất cả các loài nhím đều có một vài đặc điểm chung. Đặc trưng dễ nhận thấy nhất là những chiếc lông gai dài và sắc nhọn dùng để bảo vệ toàn bộ cơ thể. Kích thước của một số lông gai nhím có thể dài gần bằng độ dài của chân (khoảng 30cm), giống như lông gai của loài nhím bờm (crested porcupine) ở châu Phi, theo National Geographic cho biết.
Nhím sử dụng bộ lông gai sắc nhọn để tự bảo vệ mình. Chúng cử động, xù bộ lông gai sắc nhọn của mình lên để cảnh báo những kẻ thù săn mồi tiềm năng. Nếu điều đó không có tác dụng thì chúng sẽ chống trả sự tấn công của kẻ săn mồi. Những chiếc gai sắc nhọn được gắn rất lỏng lẻo nhưng không thể rơi hoặc phóng ra ngoài được, theo trang Animal Diversity Web.
Nhím bờm Bắc Phi
Một số lông nhím còn có vảy hoặc gai làm cho chúng khó có thể rơi ra được. Khi một chiếc lông bị rơi ra ngoài, nó sẽ không mất hoàn toàn. Vì sau một khoảng thời gian, chúng sẽ được mọc trở lại. Nhím Bắc Mỹ có 30.000 lông gai hoặc nhiều hơn, theo National Geographic cho biết.
Kích thước
Loài nhím lớn nhất là nhím bờm Bắc Phi, có kích thước cơ thể dài 90 cm (36 inch). Loài nhím nhỏ nhất là nhím lông ngắn Bahia, chiều dài khoảng 38cm (15 inch). Trọng lượng cơ thể của nhím dao động khoảng từ 1,2kg đến 35kg, tùy thuộc vào từng loài và đuôi của chúng có thể dài từ 20-30cm (8-12inch), theo vườn thú San Diego cho biết.
Nhím lông ngắn Bahia
Độ dài lông gai nhím theo từng loài cũng khác nhau. Nhím Erethizontidae (New World porcupines) có lông gai ngắn chỉ dài khoảng 10cm, trong khi đó nhím Hystricidae (Old World porcupines) có lông gai dài tới 51cm, mặc dù vậy vẫn có một số trường hợp ngoại lệ.
Môi trường sống
Nhìn chung, nhím có thể sống ở mọi địa hình khác nhau gồm sa mạc, đồng cỏ, núi, rừng và rừng nhiệt đới. Chúng thường sống trên các cành cây, rễ cây, khe đá, bụi cây hoặc khúc gỗ, đó chính là nhà của những con nhím.
Thói quen
Nhím là loài động vật ăn đêm, nghĩa là chúng thường hoạt động vào ban đêm và ngủ vào ban ngày. Ban đêm, chúng đi kiếm thức ăn. Nhím Erethizontidae (New World porcupines) thường sống ở trên cây, trong khi nhím Hystricidae (Old World porcupines) lại sống dưới mặt đất.
Nhím không sống theo bầy đàn. Cả hai nhóm nhím này đều sống cá thể, mặc dù nhím Erethizontidae có thể sống theo cặp. Nhím mẹ và nhím con được coi là một gia đình.
Thức ăn
Nhím là loài động vật ăn cỏ. Điều này có nghĩa thức ăn chủ yếu của chúng là thực vật. Một số loài nhím thích ăn gỗ, vì vậy chúng ăn rất nhiều vỏ cây và thân cây. Ngoài ra, chúng cũng ăn các loại hạt, củ, hạt, cỏ, lá cây, quả và chồi non.
Mặc dù không ăn thịt nhưng nhím thường gặm xương để mài răng thêm sắc nhọn. Hơn nữa, xương cung cấp cho chúng các khoáng chất quan trọng, giống như muối và canxi giữ cho chúng luôn khỏe mạnh. Nhím được biết là loài ăn côn trùng và thằn lằn nhỏ.
Sinh sản
Nhím mẹ và nhím con.
Nhím cái thường mang thai trong khoảng thời gian từ 16 đến 31 tuần, tùy thuộc vào từng loài và mỗi lứa chỉ sinh từ 1-3 con, thường là 2 con. Nhím con được gọi là con nhí (porcupettes).
Theo vườn thú San Diego cho biết, nhím con khi mới sinh chỉ nặng bằng 3% trọng lượng cơ thể của nhím mẹ. Lúc mới sinh, lông gai của nhím con rất mềm và sẽ cứng dần trong một vài ngày sau đó. Nhím trưởng thành sau khoảng 9 tháng đến 2,5 năm tùy theo từng loài và có thể sống trong môi trường tự nhiên khoảng 15 năm.
Phân loại
Nhím Erethizontidae (New World porcupines) thuộc Họ Nhím lông Tân Thế giới (Erethizontidae), gồm có 4 chi và 12 loài. Còn nhím Hystricidae (Old World porcupines) thuộc Họ Nhím lông Cựu Thế giới (Hystricidae) gồm 11 loài và 3 chi.
Dưới đây là phân loại nhím Bắc Mỹ, theo Hệ thống thông tin phân loại tích hợp (Integrated Taxonomic Information System - ITIS):
- Giới: Animalia
- Phân giới: Bilateria
- Thứ giới: Deuterostomia
- Ngành: Chordata
- Phân ngành: Vertebrata (loài có xương sống)
- Thứ ngành: Gnathostomata (động vật có quai hàm)
- Lớp cha: Tetrapoda
- Lớp: Mammalia
- Thứ: Theria
- Phân lớp: Eutheria
- Bộ: Rodentia
- Phân bộ: Hystricomorpha
- Thứ bộ: Hystricognathi
- Họ: Erethizontidae
- Phân họ: Erethizontinae
- Chi: Erethizon
- Loài: Erethizon dorsatus, với bảy phân loài
Bảo tồn
Nhím là loài động vật được quan tâm và cho là dễ tổn thương nhất bởi Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (International Union for Conservation of Nature and Natural Resources – IUCN), nhưng còn tùy thuộc vào từng loài. Loài được liệt kê là dễ bị tổn thương nhất gồm nhím Phillipine và nhím lông cứng. Hiện tại vẫn chưa có loài nhím nào được liệt kê trong danh sách nguy hiểm, nhưng một số loài nhím không có đủ dữ liệu để quyết định về tình trạng bảo tồn.
Nhím (Porcupine) là loài động vật lớn, di chuyển chậm chạp thuộc bộ gặm nhấm với những lông gai sắc nhọn ở đằng sau lưng. Chúng thường sinh sống ở khắp các châu lục, ngoại trừ Nam Cực. Các nhà khoa học chia loài Nhím thành hai nhóm khác nhau:nhím Hystricidae (Old World porcupines) sống ở châu Phi, châu Âu, châu Á và nhím Erethizontidae(New World porcupines) sống ở Bắc Mỹ và Bắc Nam Mỹ. Nhím Bắc Mỹ là loài duy nhất được tìm thấy sinh sống ở Canada và Hoa Kỳ.
Lông gai Nhím
Tất cả các loài nhím đều có một vài đặc điểm chung. Đặc trưng dễ nhận thấy nhất là những chiếc lông gai dài và sắc nhọn dùng để bảo vệ toàn bộ cơ thể. Kích thước của một số lông gai nhím có thể dài gần bằng độ dài của chân (khoảng 30cm), giống như lông gai của loài nhím bờm (crested porcupine) ở châu Phi, theo National Geographic cho biết.
Nhím sử dụng bộ lông gai sắc nhọn để tự bảo vệ mình. Chúng cử động, xù bộ lông gai sắc nhọn của mình lên để cảnh báo những kẻ thù săn mồi tiềm năng. Nếu điều đó không có tác dụng thì chúng sẽ chống trả sự tấn công của kẻ săn mồi. Những chiếc gai sắc nhọn được gắn rất lỏng lẻo nhưng không thể rơi hoặc phóng ra ngoài được, theo trang Animal Diversity Web.
Nhím bờm Bắc Phi
Một số lông nhím còn có vảy hoặc gai làm cho chúng khó có thể rơi ra được. Khi một chiếc lông bị rơi ra ngoài, nó sẽ không mất hoàn toàn. Vì sau một khoảng thời gian, chúng sẽ được mọc trở lại. Nhím Bắc Mỹ có 30.000 lông gai hoặc nhiều hơn, theo National Geographic cho biết.
Kích thước
Loài nhím lớn nhất là nhím bờm Bắc Phi, có kích thước cơ thể dài 90 cm (36 inch). Loài nhím nhỏ nhất là nhím lông ngắn Bahia, chiều dài khoảng 38cm (15 inch). Trọng lượng cơ thể của nhím dao động khoảng từ 1,2kg đến 35kg, tùy thuộc vào từng loài và đuôi của chúng có thể dài từ 20-30cm (8-12inch), theo vườn thú San Diego cho biết.
Nhím lông ngắn Bahia
Độ dài lông gai nhím theo từng loài cũng khác nhau. Nhím Erethizontidae (New World porcupines) có lông gai ngắn chỉ dài khoảng 10cm, trong khi đó nhím Hystricidae (Old World porcupines) có lông gai dài tới 51cm, mặc dù vậy vẫn có một số trường hợp ngoại lệ.
Môi trường sống
Nhìn chung, nhím có thể sống ở mọi địa hình khác nhau gồm sa mạc, đồng cỏ, núi, rừng và rừng nhiệt đới. Chúng thường sống trên các cành cây, rễ cây, khe đá, bụi cây hoặc khúc gỗ, đó chính là nhà của những con nhím.
Thói quen
Nhím là loài động vật ăn đêm, nghĩa là chúng thường hoạt động vào ban đêm và ngủ vào ban ngày. Ban đêm, chúng đi kiếm thức ăn. Nhím Erethizontidae (New World porcupines) thường sống ở trên cây, trong khi nhím Hystricidae (Old World porcupines) lại sống dưới mặt đất.
Nhím không sống theo bầy đàn. Cả hai nhóm nhím này đều sống cá thể, mặc dù nhím Erethizontidae có thể sống theo cặp. Nhím mẹ và nhím con được coi là một gia đình.
Thức ăn
Nhím là loài động vật ăn cỏ. Điều này có nghĩa thức ăn chủ yếu của chúng là thực vật. Một số loài nhím thích ăn gỗ, vì vậy chúng ăn rất nhiều vỏ cây và thân cây. Ngoài ra, chúng cũng ăn các loại hạt, củ, hạt, cỏ, lá cây, quả và chồi non.
Mặc dù không ăn thịt nhưng nhím thường gặm xương để mài răng thêm sắc nhọn. Hơn nữa, xương cung cấp cho chúng các khoáng chất quan trọng, giống như muối và canxi giữ cho chúng luôn khỏe mạnh. Nhím được biết là loài ăn côn trùng và thằn lằn nhỏ.
Sinh sản
Nhím mẹ và nhím con.
Nhím cái thường mang thai trong khoảng thời gian từ 16 đến 31 tuần, tùy thuộc vào từng loài và mỗi lứa chỉ sinh từ 1-3 con, thường là 2 con. Nhím con được gọi là con nhí (porcupettes).
Theo vườn thú San Diego cho biết, nhím con khi mới sinh chỉ nặng bằng 3% trọng lượng cơ thể của nhím mẹ. Lúc mới sinh, lông gai của nhím con rất mềm và sẽ cứng dần trong một vài ngày sau đó. Nhím trưởng thành sau khoảng 9 tháng đến 2,5 năm tùy theo từng loài và có thể sống trong môi trường tự nhiên khoảng 15 năm.
Phân loại
Nhím Erethizontidae (New World porcupines) thuộc Họ Nhím lông Tân Thế giới (Erethizontidae), gồm có 4 chi và 12 loài. Còn nhím Hystricidae (Old World porcupines) thuộc Họ Nhím lông Cựu Thế giới (Hystricidae) gồm 11 loài và 3 chi.
Dưới đây là phân loại nhím Bắc Mỹ, theo Hệ thống thông tin phân loại tích hợp (Integrated Taxonomic Information System - ITIS):
- Giới: Animalia
- Phân giới: Bilateria
- Thứ giới: Deuterostomia
- Ngành: Chordata
- Phân ngành: Vertebrata (loài có xương sống)
- Thứ ngành: Gnathostomata (động vật có quai hàm)
- Lớp cha: Tetrapoda
- Lớp: Mammalia
- Thứ: Theria
- Phân lớp: Eutheria
- Bộ: Rodentia
- Phân bộ: Hystricomorpha
- Thứ bộ: Hystricognathi
- Họ: Erethizontidae
- Phân họ: Erethizontinae
- Chi: Erethizon
- Loài: Erethizon dorsatus, với bảy phân loài
Bảo tồn
Nhím là loài động vật được quan tâm và cho là dễ tổn thương nhất bởi Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (International Union for Conservation of Nature and Natural Resources – IUCN), nhưng còn tùy thuộc vào từng loài. Loài được liệt kê là dễ bị tổn thương nhất gồm nhím Phillipine và nhím lông cứng. Hiện tại vẫn chưa có loài nhím nào được liệt kê trong danh sách nguy hiểm, nhưng một số loài nhím không có đủ dữ liệu để quyết định về tình trạng bảo tồn.