Sán trưởng thành có thể dài đến 12 mét, gồm hàng nghìn đốt, mỗi đốt chứa khoảng 50.000 trứng, sống ký sinh trong cơ thể người.
Với bệnh ấu trùng sán lợn, người ăn phải trứng sán lợn nhiễm trong thức ăn, nuốt vào dạ dày trứng sán nở ra ấu trùng và di chuyển đến ruột non. Ấu trùng xuyên qua thành ống tiêu hóa vào máu và theo máu đến các cơ, mắt hay não rồi hóa nang, ký sinh ở đó. Tùy thuộc vào vị trí ký sinh của nang sán, người bệnh có những triệu chứng khác nhau.
Một mẫu sán dây tại Viện thu hồi tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng TP HCM.
Nếu nang sán nằm trong cơ, người bệnh xuất hiện những u nhỏ, chắc, kích thước khoảng 1-2 cm hoặc bằng hạt đỗ, hạt lạc, di động, không ngứa, không đau. U nằm ở vị trí cơ vân, không ở trên đường đi của hạch bạch huyết.
Nếu nang sán nằm trong não, người bệnh có thể bị động kinh, liệt tay, chân hay liệt nửa người, nói ngọng, rối loạn trí nhớ hoặc đau đầu dữ dội. Nang sán nằm trong mắt có thể gây tăng nhãn áp, giảm thị lực hoặc mù.
Người bệnh ăn phải thịt lợn sống hay chưa chín có chứa các nang sán (lợn gạo), khi đến dạ dày ấu trùng sán sẽ thoát nang và bám dính vào ruột non rồi phát triển thành sán dây trưởng thành.
Trường hợp người bệnh có sán trưởng thành ký sinh trong ruột, khi đốt sán già sẽ rụng và thoát ra ngoài chủ yếu qua đường phân, nhiễm vào môi trường hoặc thức ăn, nước uống. Đốt sán có thể bị trào ngược lên dạ dày do phản ứng của nhu động ruột, tương tự ăn phải đốt sán mới. Khi ấy số lượng ấu trùng sán trong cơ thể sẽ rất nhiều.
Sán dây trưởng thành ký sinh trong cơ thể người sẽ phát triển dần bằng cách nẩy chồi, sinh đốt mới từ cổ tạo ra hàng nghìn đốt sán mới. Chiều dài của sán trưởng thành lên tới 2 đến 12 mét. Mỗi đốt có khoảng 50.000 trứng.
Bệnh sán dây trưởng thành thường không biểu hiện triệu chứng rõ rệt như đau bụng, rối loạn tiêu hóa nhẹ. Triệu chứng chủ yếu là người bệnh thường xuyên có những cảm giác khó chịu, bứt rứt, có những đốt sán tự rụng theo phân ra ngoài. Đốt sán là những đoạn nhỏ, dẹt, màu trắng ngà như xơ mít, đầu phẳng.
Các bệnh giun sán nói chung, khi sán vào cơ thể đều chiếm thức ăn dẫn đến cơ thể kém hấp thu dinh dưỡng, làm chậm phát triển thể lực, gây rối loạn tiêu hóa. Người nhiễm ấu trùng sán lợn phải chụp CT, chụp cộng hưởng từ để phát hiện tổn thương.
Thịt lợn chứa các nang sán (lợn gạo).
Hiện có 2 loại xét nghiệm để xác định nhiễm sán lợn là tìm kháng thể và kháng nguyên. Tuy nhiên, cả hai loại xét nghiệm này không xác định được thời điểm nhiễm sán.
Theo Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế, hiện phác đồ điều trị sán có thể diệt sán trưởng thành sau một ngày uống thuốc. Điều trị ấu trùng sán cần dài ngày hơn, thường hai tuần, cũng có thể kéo dài 4-5 đợt, mỗi đợt 21 ngày.
Phác đồ điều trị sán lợn hiện nay chỉ áp dụng từ bệnh viện tuyến huyện trở lên. Do đó Cục Y tế dự phòng khuyến cáo người dân không tự ý mua thuốc về dùng, cũng không nên điều trị bằng đông y, thuốc nam hoặc các thuốc dân gian vì dễ gây biến chứng nguy hiểm.
Mô hình sán dây trong phòng thí nghiệm.
Cục Y tế Dự phòng cũng khuyến cáo để chủ động phòng bệnh sán dây cũng như ấu trùng sán lợn, người dân không được ăn các thực phẩm sống như thịt lợn, nem chua, thịt lợn tái (nguy cơ nhiễm sán dây trưởng thành), không ăn rau sống không đảm bảo vệ sinh (nguy cơ mắc bệnh ấu trùng sán lợn), không uống nước lã.
Người dân cần quản lý phân tươi, nhất là ở những vùng có người nhiễm sán dây lợn trưởng thành; sử dụng hố xí hợp vệ sinh, không nuôi lợn thả rông. Người nhiễm sán trưởng thành phải được điều trị, không phóng uế bừa bãi. Quản lý chặt chẽ tiêu chuẩn vệ sinh các lò mổ lợn.