Loài đại bàng này ăn uống như kền kền, chúng ăn xác chết, nhưng chỉ ăn xác tươi, tránh xa thịt thối. Loài đại bàng này có thân hình thanh mảnh hơn đại bàng vàng (Aquila chrysaetos) nhưng cũng không kém phần nổi bật. Chúng là một tên trộm ranh mãnh, đại bàng thảo nguyên chắc chắn là một trong những loài chim thú vị nhất trong toàn bộ chi đại bàng Aquila.
Phân loài phương Đông (Aquila nipalensis nipalensis).
Phân loài này làm tổ ở vùng núi Altai, Đông Mông Cổ, Nam Tây Tạng đến tận Đông Trung Quốc. Hầu hết trú đông ở khu vực phía nam châu Á.
Phân loài châu Âu và Trung Á (Aquila nipalensis directionalis)
Đông Nam Âu, Bắc Nga, Trung Á, Viễn Đông, Trung và Đông Kazakhstan là những lãnh thổ sinh sản của phân loài này. Trong mùa đông, chúng di cư đến Trung Đông, Bán đảo Ả Rập, Đông và Nam Phi.
Loại đại bàng này chỉ ăn xác tươi, tránh xa thịt thối.
Ban đầu lãnh thổ của loài này bao gồm các khu vực từ Đông Âu đến Trung Á (từ Tây Tạng đến Mãn Châu) và Đông Á, đặc biệt là Mông Cổ. Ngày nay ở châu Âu, chúng chỉ sống ở phía bắc nước Nga và phía đông bắc của biển Caspi, Moldavia và Romania. Trước đây chúng cũng có mặt ở thảo nguyên Ucraina, nhưng từ lâu đã đi từ các khu vực này.
Hầu hết các đại bàng thảo nguyên châu Âu và Tây Á dành mùa đông ở Đông và Nam Phi, một số di cư đến Bán đảo Ả Rập, trong khi các phân loài Viễn Đông dành mùa đông ở Ấn Độ và các quốc gia lân cận.
Như tên gọi, đại bàng thảo nguyên thích các khu vực khô, mở, có nghĩa là nó chủ yếu chọn các sa mạc, thảo nguyên và thảo nguyên đồng cỏ. Nó sống ở độ cao lên tới 3000 mét so với mực nước biển, nhưng đôi khi có thể được tìm thấy ở tận 7900 mét so với mực nước biển. Một lãnh thổ trung bình có diện tích khoảng 30 - 50km2 mặc dù đôi khi nó có thể lên tới 100km2 đại bàng thảo nguyên chọn những khu vực ít cây cối, nó xây tổ trên mặt đất, trên đá sườn dốc, cũng như trong các bụi rậm và trên các cột điện.
Đại bàng thảo nguyên giống với đại bàng hung dữ (Aquila rapax).
Các phân loài có ngoại hình tương đối giống nhau: phân loài Aquila nipalensis nipalensis lớn hơn một chút và tối hơn Aquila nipalensis orientalis. Nhìn chung, chúng đạt chiều dài 62-81cm, có sải cánh 165-215cm, nặng khoảng 2,3-4,9kg. Con cái lớn hơn và nặng hơn con đực.
Lông chủ yếu có màu nâu sáng và tối, thường có điểm nhấn màu vàng hoặc màu nâu đỏ sau gáy. Lông cánh và đuôi có màu tối nhất, gần như đen. Dưới cánh có một dải sáng hoặc thậm chí trắng. Mắt nó màu nâu Mỏ cong và có màu xám đen ở chóp, màu vàng ở gốc. Đuôi tương đối ngắn và hình nêm, chân được phủ lông vũ màu nâu mịn, lông trần có màu vàng. Chim non có đốm trắng đặc biệt ở cổ; đổi sang màu sắc chim trưởng thành khi khoảng 3 - 4 tuổi.
Về ngoại hình, đại bàng thảo nguyên giống với đại bàng hung dữ (Aquila rapax), một loài có họ hàng gần gũi màu sáng hơn và nhỏ hơn một chút.