Nếu như nhà vật lý người Anh David Deutsch có lý, thì cuộc gặp gỡ giữa hai người bất kỳ sẽ diễn ra vô tận trong vô số những vũ trụ song song vào cùng thời điểm.
Tìm hiểu về những thiên tài của thế kỷ 21
7. David Deutsch - người khám phá ra đa vũ trụ
David Deutsch sinh năm 1953 ở Israel, nhưng đến Anh năm 3 tuối. Ông say mê toán học khi còn là thiếu niên và đã chế tạo một chiếc máy tính điện năm 13 tuổi. Ngày nay ông sống rất khép kín. Sự tham dự các đại hội làm cho ông có lúc bị lệ thuộc vào việc ăn nóng và uống trà vào lúc nửa đêm.
Deutsch nghiên cứu toán và vật lý ở Đại học Oxford, Cambridge và Austin, Texas. Ông nghiên cứu cả những phương diện triết học các lý thuyết đa vũ trụ của ông. Và trong một cuốn sách của ông với nhan đề "Vật lý về sự hiểu biết thế giới", ông bận tâm với những nền tảng vật lý về sự hình thành cuộc sống và với thuyết tiến hóa.
Một trí tuệ thiên tài làm việc không vì tiền
David Deutsch được xem là một trong những nhà vật lý giỏi nhất thế giới, ông có thể chọn cho mình sự tự do đặc biệt. Ông đã thỏa thuận với Đại học Oxford là ông không phải giảng dạy nữa, được phép làm việc ở nhà và không nhận lương. Deutsch sống bằng tiền nhuận bút.
Ai muốn gặp David Deutsch thì phải đến thăm ông từ trước tại Đại học Oxford. Nhà vật lý lý thuyết thiên tài gần như không bao giờ rời khỏi nhà bởi ông là người ngủ rất nhiều. Người ta chỉ có thể thực sự tận hưởng cuộc gặp gỡ với ông, vì khi người Anh này có lý, thì cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra vô tận trong vô số những vũ trụ song song vào cùng thời điểm. Tuy nhiên đa vũ trụ của Deutsch cho phép sự chênh lệch. Trong một vũ trụ song song này có thể nổ ra một cuộc tranh cãi, nhưng trong một vũ trụ song song khác thì cuộc bàn luận lại hoàn toàn hoà hợp.
Lý thuyết về đa vũ trụ xây dựng nền tảng cho sự phát triển siêu máy tính cực nhanh mới.
"Lý thuyết của tôi khá đặc biệt, tất cả chúng tôi đều thống nhất như thế", Deutsch nói. Tuy nhiên ông có thể dẫn chứng bằng các thực nghiệm mà nó có vẻ như chứng thực cho những ý tưởng của ông. Những vật thể cực nhỏ, được gọi là lượng tử như photon, electron hay những hạt cơ bản khác của nguyên tử, nhảy qua lại thành công giữa các vũ trụ song song. Điều đó được chứng minh như sau: Khi một người ở trong một căn phòng có hai cánh cửa, anh ta có thể bước vào thế giới của chúng ta qua một cánh cửa. Chỉ có điều không ai nhận ra được điều đó. Nhưng nếu người ta bắn một hạt ánh sáng vào một bức tường có hai cái lỗ, thì ở phía bên kia bức tường được nhìn thấy như thể hạt ánh sáng đó đi qua hai lỗ cùng một lúc vậy. Chuyện đó xảy ra trong những vũ trụ song song. Sự tái hợp của các hạt đến từ vũ trụ của chúng ta với các hạt đến từ vũ trụ song song để lại một dấu vết có thể đo được.
Điều này nghe có vẻ như một trò chơi trí óc phức tạp cho một buổi học vật lý. Nhưng lý thuyết của Deutsch về vũ trụ song song rất được quan tâm. Dựa trên nền tảng của lý thuyết, ông đã tạo ra ý tưởng phát triển máy vi tính lượng tử. Trong những chiếc máy như vậy, các lượng tử làm việc song song trong nhiều vũ trụ về một vấn đề và giải quyết nó với một tốc độ không thể tưởng tượng được. Công việc chế tạo ra một máy vi tính như thế đã có từ lâu, và thậm chí đã có những phiên bản mẫu giải quyết được những nhiệm vụ khá đơn giản. Cuộc nghiên cứu này đặc biệt tốn kém và phức tạp. Nhưng tiền đổ vào từ những ngân sách nghiên cứu của các cơ quan tình báo và quân sự gần như là không giới hạn. Vì lý thuyết đã chứng minh rằng, một máy vi tính lượng tử có khả năng giải mã được tất cả mọi mã khoá trên thế giới. Nếu ý tưởng của Deutsch được thực hiện thì sẽ không còn các bí mật nữa.
Thế nhưng Deutsch không hề quan tâm đến những ứng dụng thực tế như vậy: "Tôi theo dõi việc chế tạo máy vi tính lượng tử như một người không chuyên môn có hứng thú". Ông tìm hiểu nhiều hơn đến những kết quả cho cái gọi là Lý thuyết đa vũ trụ cho việc du lịch theo thời gian của ông. Ông tin rằng, không có gì cản trở về mặt lý thuyết cả. Một người du lịch theo thời gian có lẽ sẽ đáp xuống quá khứ của một vũ trụ song song, mà đến thời điểm đó cũng giống hệt như với vũ trụ của chúng ta, nhưng bằng một con đường khác.
Tất cả nghe như có vẻ điên rồ chăng? Lý thuyết của Deutsch vẫn chưa được chứng minh dứt khoát, nhưng nó đã tạo khả năng cho máy vi tính lượng tử đầu tiên. "Tôi ước lượng rằng, một phần trong lý thuyết lượng tử của tôi sẽ bị bác bỏ", Deutsch nói. "Nhưng một lý thuyết mới sẽ duy trì những vũ trụ song song hoặc còn đưa ra những điều kỳ quặc hơn thế nữa"
8. Eric Kandel - Người giải mã trí nhớ
Eric Kandel sinh năm 1929 ở Wien (Vienna). 10 năm sau gia đình ông trốn chạy sang Mỹ. Cú sốc của cuộc di cư đã khắc sâu vào đời sống của ông. Ông muốn tìm hiểu lịch sử và ý nghĩ của con người. Kandel là người yêu thích nghệ thuật, bởi vậy ông cũng thử tìm hiểu nền tảng thần kinh về sự cảm nhận vẻ đẹp của chúng ta.
Ngày nay ông giảng dạy tại New York và nghiên cứu trong công ty riêng của ông về một loại thuốc chống mất trí nhớ. Năm 2000 ông được trao giải Nobel Y học.
Một trong những kỷ niệm thời thơ ấu đậm nét nhất của Eric Kandel là một chiếc xe đồ chơi điều khiển từ xa. Ông nhận được món quà vào dịp sinh nhật lần thứ 9, và ông đã chơi được hai ngày. Thế rồi phát xít đã ập vào căn hộ của cha mẹ ông, vốn là người gốc Do thái. Chiếc xe bị thất lạc, nhưng cường độ của kỷ niệm này đã làm thay đổi vĩnh viễn cuộc đời của Kandel. "Làm thế nào để tôi có thể ngược trở về năm 1938 và sống lại thời thơ ấu của mình?" Kandel hỏi. Ông đã đầu tư hơn 50 năm nghiên cứu về việc giải mã bí mật của ký ức - và đã tìm ra câu trả lời.
Con người có thể hiếu được bộ não của họ làm việc như thế nào không?
Không có gì trong vũ trụ lại phức tạp hơn bộ não của chúng ta. Một thời gian dài người ta cho rằng không thể nhìn xuyên thấu được công việc của não.
Nghiên cứu của Kandel gắn bó với một con vật nhầy nhụa: ốc biển Aplysia. Nó lớn gần bằng con mèo, và tế bào thần kinh của nó hiện rõ. Kandel đã tin rằng, những tế bào thần kinh này là đơn vị cơ bản của ý nghĩ và trí nhớ của chúng ta. Ông đã tìm hiếu ở Aplysia sự học hỏi hoạt động như thế nào. Hầu hết các nhà nghiên cứu đồng nghiệp cho rằng ông bị điên, bởi ông đã chọn một con vật sơ khai như thế. Họ hoài nghi việc con ốc có thể học và nhớ. Thế nhưng Kandel đã tin tưởng vào trực giác thiên tài của ông. Ông kích thích con vật thật lâu ở một vị trí trên da, cho đến khi nó đã học được là nó không bị tổn thương vì việc đó. Đồng thời Kandel cũng đo trực tiếp trên các tế bào thần kinh của con ốc để xem những tín hiệu điện đã được tiếp tục truyền đi như thế nào.
Những kết quả thật bất ngờ: "Tôi đã chứng minh được trí nhớ lâu dài là kết quả của trí nhớ ngắn hạn – trong đó các tế bào thần kinh học hỏi lẫn nhau bằng những liên kết bổ sung", Kandel nói. Ông cũng đã phát hiện ra một protein điều khiển quá trình này – nó giống như một cánh cửa, dẫn thông tin đến trí nhớ lâu dài. Khi chứng minh được rằng bộ não của con người làm việc cũng giống hệt như bộ não của con ốc thì sự kiện đó càng gây chấn động.
Ngày nay việc nghiên cứu não là phạm vi có sức lôi cuốn nhất của thế giới khoa học. Với những máy móc như máy chụp cộng hưởng từ, các nhà nghiên cứu đã có thể quan sát trực tiếp trí nhớ của con người. Hằng nghìn nhà nghiên cứu hằng ngày đã có những phát hiện mở rộng sự hiểu biết về cơ quan phức tạp nhất của vũ trụ. Một trong những hy vọng lớn nhất của họ: tìm ra thuốc có thể ngăn chặn sự tổn thất trí nhớ của tuổi già.
Mặc dù Eric Kandel đã 77 tuổi, ông vẫn không ngồi yên nhìn những người khác tiếp tục công việc của ông. "Tôi đã phát hiện ra một protein đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra những liên kết mới của các tế bào thần kinh. Nó có thể thay đổi được hình dáng và buộc tất cả những protein xung quanh cũng thay đổi hình dáng. Một hiện tượng mà cho đến nay chúng tôi mới chỉ được biết đến ở một loại protein gây ra căn bệnh bò điên". Kandel ước tính, ông phải cần ít nhất 5 năm nữa để giải được bí ẩn của protein trí nhớ này.