Ngày nay, mỗi phát hiện là một bước tiến. Nhưng kể cả khi nó nổi tiếng, thì nó cũng chỉ là một viên gạch trên bức tường cao. Những thiên tài như Einstein làm hơi khác: họ lấy ra từ bức tường cũ vài viên gạch, quan sát kỹ rồi xây dựng tòa nhà mới.
Công thức của Einstein đã đem đến cho nhân loại bom nguyên tử và hệ thống định vị toàn cầu, nhưng bản thân nhà thiên tài chỉ tạo ra công thức, đem sáng kiến vào thế giới và mở rộng tầm nhìn. Tấm gương của Einstein đưa ra những chỉ dẫn làm cách nào để con người trở thành thiên tài. Quan trọng nhất, là phải có một nhà lý thuyết với tầm nhìn xa - cũng giống như Charles Darwin, cha đẻ của thuyết tiến hóa, nhà thiên tài vĩ đại của thế kỷ 19. Darwin đã làm một chuyến du hành nghiên cứu vòng quanh thế giới, sau đó về sống ở miền nam nước Anh và phát triển suy tưởng của ông về thành sự hình thành của các loài. Những khối tư tưởng của Einstein và Darwin đã làm thay đổi tư tưởng toàn cầu.
Từ "bức tường hiểu biết", những thiên tài như Einstein lấy ra một vài viên gạch, quan sát kỹ bản thiết kế rồi bắt tay vào xây dựng một tòa nhà mới. Khi những thiên tài đã đặt nền móng thì ngày càng có nhiều thợ xây đến và cùng xây căn nhà mới. Khoa học bước sang một hướng mới. Thiên tài của nhân loại đưa ra những viễn cảnh. Họ hiểu biết chuyên môn và tiếp xúc thoải mái với đồng nghiệp. Nhưng đáng chú ý là họ không thuộc vào "dòng chảy chính". Phần lớn họ chưa đầy 30 tuổi và thậm chí còn thích thú khi đi ngược lại với những quan điểm đã được thiết lập.
Nano nghĩa là gì? Máy nano được cấu tạo từ những bộ phận chỉ lớn khoảng vài nano mét (nm). 1nm = 10-9 mét. Trên khoảng cách vô cùng nhỏ bé này chứa vừa đủ bốn nguyên tử. Giả sử mỗi con cá chỉ lớn 1nm thì tất cả cá trong đại dương có thể cùng bơi trong một giọt nước.
Eric Drexler sinh năm 1955 ở California và học ở Học viện kỹ thuật Massachusetts, Mỹ. Năm 1986 ông cùng vợ Christine Peterson thành lập viện Foresight và cống hiến những sáng kiến về nano.
Eric Drexler là phiên bản của một thiên tài viễn ảnh. Từ lâu ông không còn nghiên cứu trong phòng thí nghiệm nữa. Thay vào đó, ông đã tạo nên một ngành hoàn toàn mới của khoa học. Trong những năm đầu của thập kỷ 80, Drexler đã cho đăng nhiều đề tài trên những tạp chí chuyên môn và năm 1986 là cuốn sách phổ biến rộng rãi "Engines of Creation“ (Máy sáng tạo).
Đó là giờ khai sinh của ngành công nghệ nano. Ngày nay "nano" là một từ phổ biến, nhưng lúc Drexler bắt đầu nói về nó thì thế giới nano hãy còn là một vệt trắng trên bản đồ tri thức.
Ý tưởng của ông nghe có vẻ như hoàn toàn không tưởng: Chúng ta sẽ sử dụng nguyên tử và phân tử như là Bits và Bytes trong máy vi tính. Người ta sẽ có thể lắp ráp những nguyên tử một cách tin tưởng và nhanh thành những kiểu mẫu mới. Chế tạo máy từ những nguyên tử đơn chiếc? Trong thập kỷ 80 thì điều đó giống như là sự thật về đĩa bay.
(Ảnh: menzelphoto)
Tham vọng của Drexler còn đi xa hơn: Ông mơ đến những chiếc máy phân tử như là máy vạn năng, được gọi là Assembler: đó là những chiếc máy nano, có thể chế tạo được bất cứ vật gì và tái tạo chính chúng. Assembler có thể được lắp vào những chiếc máy giống như máy in. "Những hộp mực in" kiểu mới sẽ cung cấp cho "máy in" những nguyên tử của từng nguyên tố. Và như vậy, sẽ không có giới hạn đối với Assembler. Người ta có thể ra lệnh cho chúng sản xuất điện thoại di động theo bản thiết kế mới, chúng có thể chế tạo một chiếc xe hơi hay là cả một con bò....
Sau khi Drexler đưa vào thế giới những ý tưởng của mình, ngày càng có nhiều nhà nhiên cứu tham gia vào chuyên ngành mới của công nghệ nano. Năm 1986, gần như cùng lúc với quyển sách của Drexler, nhà vật lý người Đức Gerd Binning đã phát minh kính hiển vi lực nguyên tử, không những có thể "nhìn thấy" từng nguyên tử mà còn chuyển động được cả chúng nữa. Nhờ đó đã tạo ra được bước đi đầu tiên vào thế giới nano. Ngày nay "nano" đã khắc vào cuộc sống hàng ngày của chúng ta Công nghệ này ẩn trong những ổ cứng của máy vi tính và kem chống nắng.
Chỉ có Assembler là vẫn chưa biết khi nào mới có. Tối thiểu thì những động cơ thích hợp đã có, được chế tạo bởi nhà công nghệ sinh học Carlo Montemagno. Trong cái máy của ông, những phân tử protein làm chuyển động một cánh quạt tí hon bằng Nickel. Một sáng chế mà nếu không có tấm gương của Drexler thì Montemagno có lẽ không bao giờ thực hiện được.
Tất nhiên, không phải tất cả các viễn ảnh đều thực hiện được. Ai làm việc với các nguyên tử đều đụng phải các lực vô hình trong thế giới khổng lồ của chúng ta. Và vì thiên nhiên vẫn thường tạo ra nhiều vấn đề rắc rối trong tế bào cơ thể, nên bước tiếp theo của công nghệ nano sẽ phải là hòa nhập với công nghệ sinh học. Drexler nhìn xa rằng "trong 30 năm nữa, công nghệ sinh học sẽ tạo ra những bước tiến khổng lồ. Bằng sự phối hợp với kỹ thuật nano, sẽ có thể điều trị bệnh trong từng tế bào. Tuổi thọ của chúng ta sẽ tăng không lường được“.
Lisa Randall sinh năm 1962 và lớn lên ở New York. Sau khi tốt nghiệp Đại học Harvard bà được nhận ghế giảng dạy tại Đại học Princeton và Học viện kỹ thuật Massachusets. Bà là người phụ nữ đầu tiên trong vị trí này tại những trường đại học danh tiếng trên. Ngày nay bà lại giảng dạy ở Đại học Harvard. Randall sống độc thân và không có con.
Phạm vi nghiên cứu của bà gọi là "lý thuyết vật lý năng lượng cao". Trong vật lý có một thứ được gọi là mô hình tiêu chuẩn, dùng để mô tả các hạt của vật chất và các lực tự nhiên cơ bản. Những nhà khoa học như Randall muốn tìm hiểu vì sao vật chất và các lực lại có nét đặc trưng như hiện nay.
Thỉnh thoảng Lisa Randall lại có vấn đề với vật lý, trước hết là với lực hút trái đất: "Lẽ ra điều đó không thể đơn giản xảy ra được", bà nói về cú ngã khi trèo núi. "Lộ trình thì đơn giản và tôi được cột dây cẩn thận". Thế nhưng bà vẫn rớt xuống và bị bể gót chân. Trong bệnh viện bà đã viết cuốn sách "Những vũ trụ ẩn mình". Theo tờ New York Times thì đó là một trong những cuốn sách quan trọng nhất trong năm. Randall đã giải quyết được nhiều điều bí ẩn xung quanh một trong những hiện tượng phức tạp nhất của tự nhiên: lực hút trái đất hay là lực hấp dẫn.
Có phải vũ trụ của chúng ta lơ lửng trong không gian 5 chiều?
Lisa Randall đã trình bày một lý thuyết có thể trả lời được những câu hỏi của vật lý.
Điều làm cho các nhà vật lý lâu nay đau đầu: Lực hấp dẫn yếu hơn những lực cơ bản khác rất nhiều. Nó có thể làm gãy một bàn chân, thế nhưng một thỏi nam châm, khi hút một cái đinh trên bàn, đã thắng cả lực hút trái đất..
"Nhưng điều đó đã chỉ ra rằng, người ta có thể giải thích lực hấp dẫn hoàn toàn mới, nếu người ta cho rằng, có nhiều hơn 3 chiều không gian", Randall nói.
(Ảnh: aapt.org)
Đối với hình ảnh vũ trụ của bà thì cần tới 5 chiều không gian. Theo bà, Vũ trụ của chúng ta tương tự như một lá cờ hoặc một cái màng 3 chiều, dao động tự do trong một không gian vô tận, có những chiều đặc biệt cho cái không gian đó. Gần ngay bên cạnh có một Vũ trụ song song như là cái màng thứ hai. Cả hai đều không liên kết với nhau, chỉ có lực hấp dẫn có thể từ Thế giới song song "nhỏ giọt" vào thế giới của chúng ta. Trong Vũ Trụ song song thì lực hấp dẫn cũng mạnh như tất cả các lực tự nhiên cơ bản khác. Ở thế giới chúng ta nó yếu hơn, bởi vì nó đến từ bên ngoài. Nó có lẽ là một lực hơn cả lực ngoài trái đất, có lẽ nó là lực ngoại vũ trụ.
Lý thuyết này mang tính cách mạng đến nỗi, nó đã làm cho Randall trở thành một ngôi sao trong ngành vật lý. Trong 5 năm qua những công trình của Randall đã được các đồng nghiệp của bà trích dẫn hơn 10.000 lần trong những đề tài của họ. Và mặc dù lý thuyết của Randall có nhiều điều chưa được chứng minh, nhưng nó vẫn mang những chuỗi tư tưởng rất lôgic, và đem đến cho các nhà thực hành trong phòng thí nghiệm hàng năm trời làm việc.
Những nhà lý thuyết khác cũng dựa theo lý thuyết của Randall và xây lên những tòa nhà tư tưởng mới.
Một nhóm những nhà nghiên cứu từ Mỹ và Anh đã đặt ra câu hỏi, điều gì xảy ra nếu các màng chạm nhau? Họ phát hiện ra trong công thức của Randall một câu trả lời khả dĩ: Sự va chạm gây ra vụ nổ nguyên thủy và từ đó đã tạo ra sự khởi đầu cho tất cả những gì đang tồn tại trong vũ trụ của chúng ta ngày nay.
"Khi chúng tôi tính toán điều gì đã xảy ra ở một vụ va chạm như thế, chúng tôi đã đi đến những kết quả trùng hợp khá chính xác với những dữ liệu của vụ nổ Big Bang", ông Burt Ovrut ở Đại học Pennsylvania nói. "Nhiệt độ, tốc độ lan tỏa, sự hình thành của vật chất, tất cả dường như là khớp với nhau". Như thế Randall đã cung cấp tiền đề để giải thích nguồn gốc vũ trụ của chúng ta. Trong khi đó Randall cũng đã trở thành một đại diện quan trọng nhất trong ngành khoa học của bà, bà viết những quyển sách bán chạy nhất và xuất hiện trên truyền hình.
Craig Venter sinh năm 1946 ở Salt Lake City, Mỹ. Ông tham gia Hải quân và là lính quân y phục vụ tại Việt Nam. Venter đã nghiên cứu sinh hoá, tâm lý và dược phẩm. Sau đó ông làm việc cho một viện nghiên cứu sức khỏe quốc gia. Tại đây ông đã phát triển ra một tiến trình mang tính cách mạng để giải mã gene. Với sự hiểu biết này ông đã tự lập công ty riêng. Ngày nay mục tiêu của ông là sự sống nhân tạo.
Với phân tử ADN, Craig Venter đã tạo ra bước đột phá mũi nhọn của việc nghiên cứu sinh học. Ông đã giải mã bộ gene của người và muốn sử dụng những kiến thức này để tạo ra những loại thuốc hoàn toàn mới.
"Ngày nay, một đứa trẻ với sự giúp đỡ của những dụng cụ hiện đại nhất có thể phát hiện trong 1 ly nước biển nhiều gene và loài hơn cả phần còn lại của thế giới trong những thập kỷ qua". Craig Venter nói, và trong câu nói đó là nền tảng cho tầm nhìn tương lai của ông. Với chiếc thuyền buồm "Sorcerer 2" ông đã đi vòng quanh thế giới để lấy những mẫu nước. Ông đưa các mẫu vật qua những cỗ máy phân tích khổng lồ ở viện nghiên cứu của mình. Nhiệm vụ của những cỗ máy đó là: tìm kiếm gene chưa được biết đến. Ông đã tập hợp được 1,2 triệu gene. Kết luận của Venter: "99% sinh vật sống ở biển vẫn chưa được phát hiện". Phần lớn chúng có thể là những đơn bào, nhưng những thông tin về gene có thể làm chúng trở thành kho vàng.
(Ảnh: poptechpoptech)
Venter ước mơ tạo ra cuộc sống nhân tạo. Bước đầu tiên, ông tạo ra một ngân hàng dữ liệu gene khổng lồ: Bộ gene của đại dương. Venter không định sáng tạo ra chiếc xe hoàn toàn mới. Thay vào đó, ông muốn lắp đặt một động cơ mới vào một khung xe cũ. Cái khung xe đó là một vi khuẩn sơ cấp. Nó đem lại cho sinh vật của Craig vỏ bọc. Khi ông giết chết gene tự nhiên của nó, ông sẽ sử dụng đến ngân hàng dữ liệu của mình và lắp ghép một bộ gene hoàn toàn mới trên máy vi tính từ những gene riêng lẻ. Chất liệu sự sống mới này sẽ được đặt vào vỏ vi khuẩn. Kết quả là một sinh vật hoàn toàn mới.
"Khi chúng tôi có một sinh vật tổng hợp với những gene tối thiểu, chúng tôi có thể tạo những gene mới và quy định thật cụ thể, các gene đó thay đổi sinh vật của chúng tôi như thế nào". Giả sử Venter có một công cụ nghiên cứu màu nhiệm mới nào đó, có lẽ ông sẽ đưa mình lên một bậc ngang với thượng đế. "Mục tiêu của tôi là cứu hành tinh", Craig Venter nói đầy tham vọng. Nếu sinh vật của Venter lúc nào đó mà sống được, nó sẽ phải học, sản xuất những nhiên liệu mới, chế tạo ra các dược phẩm hoặc là tiêu diệt khí thải gây ra hiệu ứng nhà kính.
Perelman sinh năm 1966 tại St. Petersburg. Ông học tập ở Nga và những trường đại học danh tiếng của Mỹ. Ông đã từ chối những đề nghị mời giảng dạy. Ông sống ở Nga, có thể là sống cùng với mẹ, thích đi xem hát kịch và không có việc làm.
Trong thời gian học tập,ông đã dành thời gian cho toán học hình cầu của Henri Poincaré. Qua đó ông đã chạm phải siêu vấn đề về sự phỏng đoán Poincaré, bài giải của nó đã quyết định cuộc đời của ông.
Trong bài báo mà ông đưa lên mạng vào năm 2002, Perelman đã chứng minh được phỏng đoán Poincaré và đã giải được vấn đề khó nhất của tất cả mọi thời đại - một bước ngoặt thế kỷ của toán học. Có lẽ đó là thành tích lớn nhất mà một bộ não riêng lẻ đã làm được.
Một con người có thể tạo ra được hình thể của vũ trụ không?
Bộ não của Perelman có năng suất hơn cả cơ thể của một vận động viên Olympic, thế nhưng ông lại giấu mình với thế giới.
Henri Poincaré sống cách đây 100 năm và là cha đẻ của môn cấu trúc liên kết (hay còn gọi là Tô-pô học: Topology), một lĩnh vực chuyên môn của toán học, còn được gọi là hình học về miếng cao su. Poincaré nhận ra rằng, về nguyên tắc tất cả các hình thể của thế giới đều có thể dẫn trở về hình cầu. Nếu người ta lấy một quả cầu bằng cao su, người ta có thể nặn nó cho đến khi nó nhìn giống như một cái tai thỏ hoặc như một ống nghe điện thoại. Nhưng nếu người ta không được phép làm tổn thương đến bề mặt của quả cầu, thì không thể nặn nó trở thành một cái ly cà phê, vì ly cà phê có một cái lỗ ở quai.
Poincaré phỏng đoán rằng, ý nghĩa cơ bản này của quả cầu không chỉ có giá trị trong không gian 3 chiều của chúng ta, mà còn cả trong những không gian nhiều chiều. Sự chứng minh cho phỏng đoán này phức tạp đến nỗi, 100 năm qua các nhà toán học đã hoài nghi - cho đến khi Grigori Perelman trình bày công trình của ông trên Internet. Công trình này tất nhiên không dễ hiểu: các đồng nghiệp của Perelman đã bỏ ra 4 năm miệt mài cho đến khi họ hiểu được công việc của ông. Kể cả ngày nay cũng chỉ có một số rất ít các nhà toán học hiểu được cách Perelman xây dựng luận chứng của ông như thế nào.
Một thành tích vĩ đại như thế, vậy mà Perelman đã tạo ra bước đột phá chỉ có một mình. Ông đã làm việc trong một viện nghiên cứu nhỏ, không hề tiếp xúc với các nhà toán học khác. Ngay cả trong cái thế giới không bình thường của toán học thì Perelman vẫn luôn là một kẻ lập dị, người có hàng ngàn điều đồn thổi. Sau khi có tin rằng ông được đề cử nhận giải Nobel toán học, ông đã biến mất. Ông đã xin thôi việc, không trả lời phỏng vấn, không trả lời email. Các nhà chuyên môn ước tính, còn cần cả trăm năm nữa để có thể hiểu được toàn bộ công trình của Perelman. Điều đó hoàn toàn có ý nghĩa. Phỏng đoán Poincaré tạo ra những trình bày quan trọng về hình thể của cả vũ trụ. Nhờ có Perelman, những nhà nghiên cứu một ngày nào đó sẽ hiểu được vũ trụ nhiều hơn.
Marvin Minsky sinh năm 1927 ở New York, tốt nghiệp môn toán tại Đại học Havard, ông lấy học vị tiến sĩ ở đại học Princeton. Thế nhưng ông đã dành gần trọn cuộc đời nghiên cứu tại Học viện kỹ thuật Massachusets. Minsky đã nhận hàng loạt giải thưởng hàn lâm viện, và trước sau ông vẫn được xem là nhà tư tưởng tiên phong của công việc nghiên cứu trí thông minh nhân tạo.
"Ông ấy là người thông minh nhất mà tôi đã từng gặp". Nhà nghiên cứu về ý thức Roger Schank nói về Marvin. Và trí thông minh của Minsky chỉ biết duy nhất có một mục đích: hiểu được trí thông minh – và đưa nó vào một chiếc máy.
Khi Marvin Minsky bắt đầu mơ về những cái máy biết suy nghĩ, thì con người vẫn còn đang tính toán bằng chiếc bàn tính. Năm 1956, cách đây 50 năm, ông là nhà tiên phong mang tính quyết định của phạm vi nghiên cứu "trí thông minh nhân tạo". Kể từ đó Minsky đã đưa "chuyên ngành của ông" tiến tới. Ông đã thành lập phòng nghiên cứu về trí thông minh nhân tạo ở Học viện kỹ thuật Massachusets - một cơ sở nghiên cứu, được ví như là toà thánh Vatican trong địa phận về trí thông minh nhân tạo. Và Minsky ở đây rõ ràng là Đức Giáo Hoàng.
Trí thông minh nhân tạo có hình thành trong hệ thống mạng lưới hay không?
Khi những chiếc máy khá đơn giản có khả năng giải quyết các vấn đề, tạo thành một mạng lưới, sẽ phải hình thành một ý thức.
Ông đã tạo ra những mạng thần kinh, những cánh tay cơ học và những bộ phận cơ thể khác cho robot, ngoài ra còn những cái máy làm thay đổi điệu nhạc. Sách của ông chất được đầy cả kệ, giải thưởng kín khắp tường. Nhưng thành tích lớn nhất của Minsky là cuốn "The Society of Mind" (Xã hội của trí tuệ). Trong đó ông đã trình bày một lý thuyết, làm sao để có thể tạo ra được trí thông minh nhân tạo.
(Ảnh: typepad)
Ông hỏi: "Sự khéo léo kỳ diệu nào đã tạo ra trí thông minh của chúng ta?" Câu trả lời của ông: " Sự khéo léo đó là, chẳng có sự khéo léo nào hết. Người ta có thể chế tạo được một trí thông minh từ nhiều phần, mà tất cả những phần đơn lẻ đó hoàn toàn không có trí tuệ".
Theo đó thì trí thông minh xuất hiện hoàn toàn tự nhiên, khi mà nhiều đơn vị được kết mạng với nhau, trong đó từng nhiệm vụ nhỏ và đơn giản được hoàn thành. Tất cả chúng ta đều mang cái bằng chứng tốt nhất cho lý thuyết này ở trong đầu: Bộ não của chúng ta. Trí tuệ hình thành trong não qua những mạng lưới vô cùng phức tạp từ những đơn vị đơn giản - những tế bào thần kinh. Lý thuyết mạng lưới của Minsky về trí thông minh đã lan tràn rất nhanh trong khoa học và kỹ thuật. Ngày nay mạng lưới máy vi tính có trong từng phòng làm việc, các nhà sinh học đã phát hiện trong nhiều loài sinh vật trí thông minh bầy đoàn: một nhóm lớn những sinh vật đơn lẻ không thông minh như ong đã hoàn thành sự suy luận kỳ diệu thực sự, khi những bộ não của chúng được liên kết trong bầy với nhau. Để làm được điều đó chỉ cần những nguyên tắc phản ứng đơn giản và một hình thức trao đổi thông tin nào đó.
Các nhà nghiên cứu ngày nay thậm chí sử dụng những mạng lưới vi tính để tìm kiếm trí thông minh ngoài trái đất. Dự án SETI@home kết nối khoảng 5 triệu máy vi tính của cá nhân trên khắp thế giới. Năng suất làm việc không được sử dụng đến của những máy tính đó giúp khoa học tìm kiếm một thông điệp từ những tín hiệu vô tuyến đến từ vũ trụ. Cho đến ngày hôm nay, chúng ta vẫn chưa tạo ra được trí thông minh nhân tạo thực sự, nhưng điều đó có thể là ở chỗ, những mạng lưới của chúng ta vẫn chưa đủ phức tạp.
Chuyện đó phải thay đổi: Nhà thần kinh học người Thụy Sĩ Henry Markram đang phỏng theo bộ não con người trên máy siêu vi tính. Ngay cả máy tính mạnh nhất cũng vẫn chỉ tạo được một đơn vị cấp thấp và nhỏ của bộ não. Markram hy vọng vào máy tính tương lai. Nó cần phải đủ mạnh để kết nối được hàng ngàn đơn vị cấp thấp đó với nhau. "Như thế có thể xuất hiện cái gì đó tương tự như ý thức nhân tạo", nhà nghiên cứu nghĩ thế.
Mặc dù tuổi ngày càng cao, nhưng Marvin Minsky hãy còn lâu mới chịu nghỉ ngơi. Mới đây ông lại làm cuộc cách mạng hóa lĩnh vực chuyên môn của ông thêm lần nữa. Quyển sách "The Emotion Machine" (Máy cảm xúc) của ông xuất hiện trong tháng 11/2007 chỉ ra cho việc nghiên cứu trí thông minh nhân tạo một con đường mới. Ông tin tưởng: "Cảm xúc chỉ là một thể loại khác của trí thông minh". Khi máy vi tính học cách suy nghĩ, thì trước tiên chúng phải biết được xúc cảm là gì. Những nhà nghiên cứu trong phòng thí nghiệm đang chuẩn bị, bằng những xảo thuật phần mềm, tạo cho máy vi tính cảm giác sợ hãi hoặc vui mừng.
Richard Dawkins sinh năm 1941 ở Kenia và đến nước Anh khi còn là một đứa trẻ. Lĩnh vực chuyên môn của Dawkins là nghiên cứu thái độ cư xử của người và động vật, còn được gọi là động vật tính học hoặc nhân tính học. Ông học tại Đại học Oxford, nơi ngày nay ông là giáo sư. Dawkins là một trong những tác giả viết sách về sinh học thành công và nhiều ảnh hưởng nhất. Thậm chí Đại học Oxford đã lập ra giải thưởng Dawkins dành cho những nhà nhân tính học đặc biệt giỏi.
Ông không những đã suy nghĩ tiếp tục lý thuyết của Darwin mà còn cách mạng hóa nó nữa.
Có phải gene của chúng ta là bất tử?
Dù là người, chuột hay cây thông - tất cả những vật thể sống tồn tại chỉ là cái vỏ bảo vệ cho những đơn vị thông tin của gene.
Kết luận của Dawkins: Không phải các loài là trung tâm của sự chọn lọc, mà là gene.
Ông nhận thấy, gene điều khiển hành động của chúng ta để đảm bảo cho sự phát triển của chúng. "Cơ thể chỉ là những cái máy sinh tồn và là vỏ bọc cho gene, mà bản thân gene là bất tử", Dawkins nghĩ thế. Thật sự là gene nhờ có những phiên bản copy giống hệt nhau mà tồn tại qua những khoảng thời gian rất lớn trong nhiều chủng loại. Chẳng hạn như hồng cầu, một chất màu đỏ trong máu của tất cả những động vật có vú. Gene điều khiển sự sản xuất của nó đã phải được hình thành qua sự đột biến, khi cuộc sống không diễn ra ở dưới nước. Kể từ đó nó đã phát triển trên toàn trái đất.
Tiền đề về gene bất tử của Dawkins giải quyết được một vấn đề đau đầu kể từ thời Darwin: tại sao những cá nhân lại hy sinh sự sống của chính mình cho những cá nhân khác? Sự hy sinh đó phản bác lại thuyết "sự tồn tại của kẻ mạnh". Từ khi có Dawkins thì sự việc rõ ràng: chúng ta giúp đỡ kẻ yếu, bởi vì chúng ta có cùng bộ gene với họ. Điều đó có giá trị trong gia đình, và cả trong một tập hợp nhỏ của cả một loài. Dawkins đã mở rộng ý tưởng về gene của ông thành ý tưởng về tài sản văn hóa.
Tài sản văn hóa là những thông tin văn hóa lan truyền trong một xã hội, cũng như gene phát triển trong một vật thể sống. Gene tự sao chép trong mô hình của những phân tử DNA, và cả những thông tin văn hóa cũng để lại các dấu vết thực bằng cách chúng thay đổi cấu trúc não. Thông tin văn hóa có thể là những ý tưởng về thời trang, một giai điệu nhạc hay một công nghệ mới. Nếu chúng ta học một thông tin văn hóa, chẳng hạn như lái xe đạp, những liên kết mới sẽ được tạo ra trong bộ não của chúng ta. Và khi chúng ta dạy con cái học lái xe, chúng ta tiếp tục truyền thông tin văn hóa. Cũng giống như gene, thông tin văn hóa có thể gần như là bất tử và đột biến. Thông tin văn hóa về "chế tạo công cụ đập" đã có ít nhất là 600.000 năm, nhưng đã tự chuyển đổi từ cái nêm sang búa rìu.
Một ý tưởng đã đặc biệt tác động đến Dawkins: tôn giáo. "Tất cả chỉ là virus ở trong đầu!" ông cho là như vậy. Cũng như virus máy vi tính, nó lan truyền và ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống tư tưởng. Chẳng có gì là lạ khi ngày nay Dawkins đang đứng giữa một cuộc chiến về văn hóa chống lại những tín đồ thiên chúa giáo bảo thủ. Ông bảo vệ sinh học chống lại việc tìm cách thay thế thuyết tiến hóa bằng Sáng thế thư của họ (Sáng thế thư là đoạn đầu của Cựu ước trong thánh kinh viết về sự sáng tạo ra thế giới của Tạo hóa).