Trí nhớ của con người là hữu hạn, trong khi thứ cần nhớ gần như là vô hạn. Câu hỏi đặt ra là làm sao bộ não của chúng ta có thể lọc được nguồn thông tin cần lưu giữ?
Nghiên cứu chấn động ngành thần kinh học
Các nhà khoa học lâu nay vẫn nghiên cứu về hệ thống phản trí nhớ dựa trên các mô hình lý thuyết trên chuột đồng nhưng mãi gần đây, họ mới phát hiện ra hệ thống phản trí nhớ cũng có ở người.
Một nhóm nghiên cứu thuộc Trường Đại học Oxford (Anh), dẫn đầu là tiến sỹ Helen Barron - một nhà khoa học thần kinh - đã công bố kết quả nghiên cứu của mình trên tạp chí Thần kinh (Neuron). Họ tin rằng mình đã tìm ra "phản vật chất" của hệ thần kinh - hệ thống phản trí nhớ trong não bộ người.
Với phản trí nhớ, não bộ con người mới có thể giữ được trạng thái cân bằng, không bị bệnh. (Ảnh: Sante.journaldesfemmes.com).
Trí nhớ con người - ở mức độ cơ bản - thực chất là liên kết điện tích giữa các neuron thần kinh. Khi bạn thiết lập một ký ức mới, mối liên hệ giữa các neuron này được kích hoạt và trở nên hưng phấn.
Tuy nhiên, nếu cơ chế lưu trữ thông tin trong não chỉ có thế, việc ghi nhớ thêm những ký ức mới hay việc học thêm được điều gì đó mới lạ có thể khiến hoạt động điện não trong cơ thể người trở nên quá tải, dẫn tới một số bệnh lý như tâm thần phân liệt, tự kỷ và động kinh.
Vì vậy, theo giả thuyết của các nhà nghiên cứu ở Đại học Oxford, phải có một hệ thống ức chế hoạt động của các neuron thần kinh, đưa hoạt động điện từ trong não về trạng thái cân bằng. Đây thực chất là những liên kết neuron tạo ra xung điện đối lập với xung điện tạo ra khi neuron kết nối để ghi nhớ thông tin mới. Họ đặt tên hệ thống này là hệ thống phản trí nhớ.
Theo các nhà khoa học, cơ chế này không hề làm ảnh hưởng tới trí nhớ mà nó chỉ có tác dụng ngăn cản não đọc được thông tin lưu trữ trong miền ký ức. "Vai trò của hệ thống phản trí nhớ không phải là hỗ trợ việc quên mà là hỗ trợ việc ổn định quá trình lưu trữ của bộ nhớ, cho phép lưu lại rất nhiều ký ức mà không sợ chúng bị lẫn vào nhau. Ví dụ, nếu bạn cố nhớ lại lần cuối cùng bạn nhìn thấy mẹ, bạn sẽ không muốn nhớ lại tất cả những lần gặp mẹ trước đó" - tiến sỹ Barron nói.
Tiến sỹ Helen Barron cho rằng cần thêm nhiều nghiên cứu nữa để tìm ra cơ chế của quá trình nhớ lại ký ức, trong đó bao gồm cả mối quan hệ tương hỗ giữa hệ thống trí nhớ và phản trí nhớ.
Cơ hội cho người bị bệnh về não
Để đưa ra kết luận về vai trò của phản trí nhớ, các nhà khoa học đã tiến hành một thí nghiệm đặc biệt. Những tình nguyện viên tham gia vào thí nghiệm được hướng dẫn kết hợp những hình khối với màu sắc khác nhau. Trong khi đó, các nhà nghiên cứu sử dụng máy chụp ảnh cộng hưởng từ chức năng (fMRI) để xem não người tình nguyện hoạt động ra sao.
Mô hình nghiên cứu này có thể được đưa vào ứng dụng trực tiếp trên các bệnh nhân.
Họ phát hiện ra rằng sau hơn 24 giờ, sự kết hợp hình khối trong não không hiển thị khi tình nguyện viên được cho xem lại hình lần nữa. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng tới kỹ thuật kích thích dòng điện hạ trực tiếp xuyên não để ngăn chặn sự tập trung của các hoá chất thần kinh, trong đó có gaba - một chất có liên quan trực tiếp tới sự ức chế. Bằng cách này, họ đã giảm bớt được hoạt động của các neuron thần kinh ức chế trí nhớ, giúp khôi phục thông tin về sự kết hợp hình khối ở tình nguyện viên.
"Chúng tôi đã chứng minh được rằng, việc giảm sự ức chế ở võ não có thể giúp nhớ lại một phần ký ức. Kết quả này phù hợp với cơ chế cân bằng của bộ não: Khi não học tập và ghi nhớ thông tin mới, đó là lúc các mối liên kết mang tính kích thích được củng cố. Cũng lúc này, các liên kết mang tính ức chế được tăng cường để cân bằng lại hoạt động não bộ" - tiến sỹ Helen Barron cho hay.
Dù mới được tiến hành nghiên cứu trong phạm vi nhỏ hẹp, nhưng kết quả nghiên cứu của tiến sỹ Barron và đồng nghiệp đang mở ra những hi vọng mới cho việc chữa trị các bệnh liên quan tới vấn đề tâm thần kinh.
"Mô hình nghiên cứu này có thể được đưa vào ứng dụng trực tiếp trên các bệnh nhân - bao gồm những người mắc bệnh tâm thần phân liệt và bệnh tự kỷ. Chúng tôi hi vọng rằng, nghiên cứu này sẽ được các bác sỹ tâm thần và bệnh nhân lưu tâm để chúng tôi có thể phát triển, ứng dụng nó vào việc phân tích và điều trị các rối loạn tâm thần" - bà Barron nói.