Viêm não Nhật Bản là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do một loại virus có ái tính với nhu mô não gây ra. Căn bệnh này thường để lại di chứng trầm trọng và tỉ lệ tử vong cao. Vậy làm sao để nhận biết trẻ bị Viêm não Nhật Bản và cách phòng tránh bệnh cho trẻ như thế?
Viêm não Nhật Bản
Viêm não Nhật Bản (còn được gọi là viêm não mùa hè, viêm não B) là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính hệ thần kinh trung ương do virus viêm não Nhật Bản gây ra. Bệnh có diễn biến nặng, nguy cơ tử vong và di chứng cao.
Căn nguyên gây bệnh
Bệnh viêm não Nhật Bản do một loại virus thuộc nhóm Arbovirus gây nên. Virus được phân lập lần đầu tiên năm 1934 trong một vụ dịch ở Nhật Bản. Tên gọi virus viêm não Nhật Bản B để phân biệt với một loại viêm não khác gọi là viêm não Economo A.
Vật chủ mang mầm bệnh là lợn và một số loài chim.
Sự lây truyền bệnh
Virus được truyền sang người do bị muỗi đốt. Loại muỗi mang vai trò này có tên là Culex, muỗi đốt vật chủ mang mầm bệnh sau đó đốt sang người thực hiện vai trò truyền bệnh. Loại muỗi này thường ưa hoạt động trong và ngoài nhà, hút máu vào khoảng từ 18-22 giờ, giảm dần rồi ngưng hoạt động vào khoảng 8 giờ sáng.
Vật chủ mang mầm bệnh là lợn và một số loài chim.
Ở Việt Nam có hai nhóm chim có khả năng truyền bệnh. Nhóm thứ nhất gồm các loài chim sống trong làng mạc, lũy tre trên cây ăn quả như chim sẻ, chim chích chòe... Nhóm thứ hai gồm các loài kiếm ăn ngoài đồng, ít vào trong làng như cò, sáo, quạ... Vì vậy vào mùa có nhiều quả chín, tần suất bệnh cũng nhiều lên có thể là do có nhiều chim mang mầm bệnh chứ không phải do có nhiều hoa quả.
Mùa mắc bệnh
Bệnh thường xảy ra vào mùa hè, phổ biến từ tháng 5-7. Bệnh thường tản phát nhiều hơn là phát triển thành dịch.
Đối tượng có thể mắc bệnh
Trẻ em hay mắc bệnh viêm não Nhật Bản B nhưng tỷ lệ mắc bệnh theo lứa tuổi thay đổi từ năm này sang năm khác. Trong phần lớn các vụ dịch, trẻ nam mắc bệnh nhiều hơn trẻ nữ. Lứa tuổi mắc bệnh thường từ 2-7 tuổi.
Triệu chứng, biểu hiện của bệnh
Thời kỳ ủ bệnh là 1 – 6 ngày, ngắn nhất 24 giờ và có khi tới 14 ngày.
Sốt thường xuất hiện đột ngột và thường là sốt cao từ 39-40oC, kèm theo là đau đầu (trẻ còn bú thường có những cơn khóc thét), nôn hoặc buồn nôn cũng thường xuất hiện. Bệnh nhân có thể có rối loạn tri giác các mức độ (ngủ gà, li bì hoặc hôn mê). Kèm theo trẻ có thể co giật, thường co giật nửa người hoặc toàn thân theo kiểu động kinh nhiều lần trong ngày, mắt trợn ngược, thở khò khè nhiều đờm...
Một số dấu hiệu cũng có thể thấy nhưng hiếm gặp hơn hoặc xuất hiện muộn như liệt, tăng trương lực cơ, rối loạn hô hấp, bí đại tiểu tiện. Trẻ có thể chết do suy hô hấp, trụy tim mạch. Nếu được cứu chữa kịp thời và tích cực, trẻ có thể khỏi bệnh nhưng bị những di chứng với nhiều mức độ nặng nhẹ như: bại liệt, cấm khẩu không nói được, mất trí nhớ...
Điều trị bệnh
Bệnh viêm não Nhật Bản không có thuốc điều trị đặc hiệu, điều trị triệu chứng là chủ yếu. Để ngăn chặn nguy cơ tử vong và giảm thiểu các biến chứng, di chứng, việc điều trị kịp thời, tích cực tại các cơ sở y tế là rất quan trọng để giảm bớt phần nào các triệu chứng, cứu trẻ qua khỏi cơn nguy kịch như dùng thuốc hạ sốt, chống co giật, chống suy thở, chống phù não, bồi phụ nước, điện giải và chăm sóc dinh dưỡng. Sau đó điều trị những di chứng phục hồi vận động, tâm thần kinh.
Phòng bệnh
viêm não Nhật Bản là bệnh nguy hiểm nhưng chúng ta hoàn toàn có thể chủ động phòng ngừa vì hiện tại, Việt Nam đã có vaccine VNNB, vì vậy biện pháp tích cực nhất để phòng bệnh chính là tiêm vaccine viêm não Nhật Bản đúng và đầy đủ. Vaccine viêm não được khuyến nghị tiêm cho trẻ từ 12 tháng tuổi trở lên, tiêm mũi thứ hai sau mũi thứ nhất 1 tuần và tiêm mũi thứ 3 sau một năm, có thể tiêm nhắc lại sau 3-4 năm cho đến 15 tuổi.
Trên phương diện toàn xã hội, phòng bệnh viêm não Nhật Bản phải là công tác tổng lực bao gồm việc phòng chống tại các ổ dịch và vùng ven bằng cách phun thuốc diệt bọ gậy, giải quyết nước ứ đọng, phân, rác...
Về phương diện cá nhân, cần tránh muỗi đốt bằng cách ngủ màn, sử dụng hương diệt muỗi hoặc thuốc xịt ngoài da chống muỗi đốt, gắn lưới cho tất cả các cửa nhà, cửa sổ. Khi sinh hoạt bên ngoài vào ban đêm, phải mặc quần áo dài, đi tất. Cần thông quang hoặc lấp các cống rãnh, ao vũng tù đọng quanh nhà.