Người đứng đầu cơ quan tư vấn đạo đức sinh học của tòa thánh Vatican, ông Ignacio Carrasco de Paula vừa gửi thư cho hãng tin AP phản đối phương pháp “thụ tinh trong ống nghiệm” vì giải Nobel trao cho Robert G. Edwards...
Theo Ignacio Carrasco de Paula, giải Nobel “không nhầm chỗ” nhưng phương pháp này đặt ra nhiều vấn đề vì không giải quyết tận gốc bệnh vô sinh.
Phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilisation - IVF) đến nay giúp 4 triệu người trên thế giới sinh ra, và mang lại giải Nobel Y học 2010 cho cha đẻ của phương pháp này là Robert Edwards. Tuy nhiên, Tòa thánh Vatican cho rằng IVF vi phạm nguyên tắc đạo đức. Một số người cũng lo ngại những hệ quả không mong muốn.
Vi phạm đạo đức
Ignacio Carrasco de Paula phản đối IVF (In vitro fertilization - IVF) vì phương pháp thụ thai này không xuất phát từ “quan hệ” vợ chồng, và dẫn tới việc phá hủy phôi thai. Giáo lý của nhà thờ chỉ chấp nhận sự sống con người sinh ra từ quá trình thụ thai và không chấp nhận hành động phá hoại mầm sống.
Ignacio Carrasco de Paula nói “nếu không có Louise Brown – người đầu tiên sinh ra bằng phương pháp IVF, thì đã không hình thành thị trường trứng”. Brown năm nay 32 tuổi và đến nay cô đã sinh một em bé bằng phương pháp thụ thai tự nhiên.
Tinh trùng của người bố được cho kết hợp với trứng.
“Không có Edwards thì không có những hộp đông lạnh đầy phôi thai chờ đợi đưa vào tử cung, bị sử dụng để nghiên cứu hay chết đi, bị bỏ mặc hay quên lãng”, Carrasco viết. Carrasco cũng cho rằng Edwards có lỗi trong việc tình trạng sinh sản có trợ giúp: trẻ em sinh ra có tới 4-5 cha mẹ, em bé sinh ra từ bà.
Carrasco nhấn mạnh ông chỉ nêu ý kiến của cá nhân, chứ không đại diện cho tòa thánh, và rằng giải pháp cho tình trạng vô sinh vẫn đang nằm đâu đó và mọi người nên kiên nhẫn đợi kết quả nghiên cứu mới.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu mới công bố của các nhà khoa học nhà khoa học ở Trường ĐH bang New South Wales (Australia) cho thấy, tỷ lệ bé trai sinh ra nhờ phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm là 128 bé trai/100 bé gái, trong khi tỷ lệ trẻ em sinh bằng phương pháp tự nhiên là 105 bé trai/100 bé gái.
Nguyên nhân có thể do phôi thai mang giới tính nam khỏe hơn khi được thụ tinh bằng phương pháp IVF. Kết quả này được công bố sau khi các nhà khoa học phân tích 13.368 đứa trẻ ở Australia và New Zeland sinh ra nhờ phương pháp can thiệp từ năm 2002-2006.
Đắt đỏ, tiềm ẩn rủi ro
Quy trình thụ tinh trong ống nghiệm hoàn chỉnh bắt đầu từ khi người phụ nữ được uống một loại thuốc để tăng khả năng sinh sản của trứng. Sau đó trứng được lấy ra khỏi cơ thể bằng tiểu phẫu. Tinh trùng của người bố được cho kết hợp với những trứng tốt nhất và được giữ trong môi trường được kiểm soát tốt. Sau vài tiếng, khi trứng được thụ tinh và trở thành phôi. Trong vòng 5 ngày, tế bào của phôi bình thường tự phân chia. Phôi được cấy trở lại vào cơ thể người mẹ sau 3-5 ngày sau khi trứng được lấy ra.
Có thể nhiều phôi thai được cấy vào tử cung cùng lúc, nên có thể dẫn tới trường hợp sinh đôi, sinh ba hoặc hơn. Số lượng phôi thai được cấy phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là tuổi của người mẹ. Những phôi không được dùng đến có thể được làm lạnh, cấy hoặc tặng cho những người khác.
Tỉ lệ thành công của phương pháp này là 4/10, nên nhiều phụ nữ phải trải qua quy trình này nhiều lần. Chi phí cho mỗi quy trình đó ở Mỹ là từ 10.000-15.000 USD và không được công ty bảo hiểm chi trả.
Phương pháp này cũng có nhiều rủi ro. Một số phụ nữ uống thuốc tăng khả năng sinh sản bị sưng người, đau bụng, tâm trạng thất thường, đau đầu, và một số tác dụng phụ khác.
Trong vài trường hợp, loại thuốc này có thể gây hội chứng kích thích buồng trứng quá mức (ovarian hyperstimulation syndrome - OHSS), khiến nước tích tụ ở bụng và ngực. Các triệu chứng gồm đau bụng, sưng, tăng cân nhanh, giảm đi tiểu dù uống nhiều nước, buồn nôn, nôn và thở ngắn. Những trường hợp nhẹ chỉ cần nghỉ ngơi, trường hợp nghiêm trọng cần can thiệp để rút nước ra.
Quá trình cấy trứng vào cơ thể có thể gây ra một số phản ứng như tê, nhiễm trùng, tổn thương cơ quan quanh buồng trứng như ruột và bàng quang. Việc mang thai nhiều em bé cùng lúc có thể dẫn đến nguy cơ đẻ non, đẻ thiếu cân. Vẫn chưa có bằng chứng khẳng định IVF gây ra khuyết tật bẩm sinh.