Ung thư đường mật một loại ung thư hiếm gặp, ít được nhắc đến vẫn đang âm thầm tàn phá sức khỏe của hàng nghìn người trên thế giới. Chính vì thế, người ta không chú ý nhiều đến loại bệnh này, từ đó chủ quan không phát hiện bệnh sớm. Tuy nhiên, ung thư đường mật rất nguy hiểm với thời gian sống chỉ khoảng 6-9 tháng.
Ung thư đường mật (Carcinoma đường mật) là ung thư hình thành trong hệ thống các ống dẫn đưa mật từ gan xuống ruột non.Ung thư đường mật chia thành 2 loại chính: ung thư đường mật trong gan và ngoài gan.
Ung thư đường mật là bệnh lý ác tính của hệ thống đường mật, có thể phát sinh từ đường mật trong gan hay đường mật ngoài gan, bao gồm cả vùng hợp lưu của bóng mật – tụy.
Theo vị trí giải phẫu, ung thư đường mật được chia ra làm 3 nhóm:
Trong đó ung thư đường mật vùng rốn gan là loại hay gặp nhất còn ung thư đường mật vùng trong gan ít gặp nhất. Tuy cùng là ung thư đường mật nhưng mỗi nhóm lại có sự khác biệt về tiên lượng cũng như phương pháp điều trị.
Ung thư đường mật vùng rốn gan hình thành ở ngã ba đường mật, vị trí hợp lưu của ống gan phải và ống gan trái để thành ống gan chung. Ung thư đường mật ngoài gan là những khối u nằm trong khoảng từ bờ trên của tụy đến vị trí hợp lưu của bóng mật-tụy (bóng Vater).
Khoảng trên 95% các khối u đường mật là lọai ung thư biểu mô tuyến ống, với đặc điểm là tiến triển nhanh, phát hiện muộn ở giai đoạn không thể phẫu thuật.
Vàng da là hậu quả của tình trạng tắc nghẽn đường mật gây ra bởi khối u.
Đây là triệu chứng thường gặp nhất, thường bộc lộ rõ nhất khi tiếp xúc với ánh nắng. Vàng da là hậu quả của tình trạng tắc nghẽn đường mật gây ra bởi khối u. Muối mật trào ngược từ trong đường mật vào các xoang gan, đi vào máu và lắng đọng ở da. Vàng da thường kém theo phân bạc mầu và nước tiểu sậm mầu (như nước vối).
Biểu hiện ở củng mạc mắt có mầu vàng sậm. Dấu hiệu này có thể xuất hiện trước hoặc đồng thời với biểu hiện vàng da.
Ngứa thường kèm với vàng da nhưng nhiều trường hợp lại xuất hiện trước khi có vàng da. Mức độ ngứa thường tăng lên về đêm và hầu như không đáp ứng với các thuốc điều trị da liễu. Ngứa là do acid mật lắng đọng ở da, kích thích các thụ thể thần kinh cảm giác.
Khoảng 30-50% các trường hợp gầy sút cân tại thời điểm chẩn đoán. Đây là hậu quả của quá trình rối loạn tiêu hóa (chán ăn,ăn không tiêu, chướng bụng) do không có dịch mật được bài xuất xuống rột.
Bệnh ở giai đoạn sớm thì triệu chứng thường đau mơ hồ, không rõ ràng. Khi đau bụng nhiều thì thường do các biến chứng của tắc mật.
Gan to là do hậu quả của tình trạng ứ mật. Khoảng 25% các trường hợp có thể sờ thấy bờ gan ở dưới bờ sườn với mật độ mềm.
Nếu khối u ung thư ngăn chặn sự phóng thích mật và dịch tụy vào ruột, khiến suy giảm khả năng tiêu hóa chất béo. Chất béo không tiêu hóa có thể làm cho phân trở nên nhợt nhạt bất thường.
Khi nồng độ bilirubin trong máu cao, nó cũng có thể xuất hiện trong nước tiểu và biến nó thành màu vàng sậm.
Đây không phải là các triệu chứng phổ biến của ung thư ống mật, nhưng có thể xảy ra nếu bạn bị nhiễm trùng đường mật do tắc nghẽn đường mật. Chúng thường thấy cùng với sốt.
Nguyên nhân của ung thư đường mật hiện nay vẫn còn chưa rõ ràng, nhưng đã xác định được các yếu tố nguy cơ cao của bệnh như viêm xơ hóa đường mật nguyên phát, nhiễm trùng và ký sinh trùng đường mật mạn tính (ví dụ sán lá gan).
Sỏi đường mật là một trong những nguyên nhân gây ung thư đường mật.
Ở các nước đang phát triển thì yếu ố nguy cơ hàng đầu là sỏi đường mật và nhiễm trùng đường mật mạn tính.
Khác với ung thư biểu mô tế bào gan (HCC), chưa có bằng chứng rõ rệt về viêm gan virus và xơ gan đối với ung thư biểu mô đường mật.
Bên cạnh đó, phơi nhiễm với hóa chất đã được chứng minh làm tăng nguy cơ hình thành ung thư đường mật, thường gặp ở những người làm việc trong ngành công nghiệp hóa chất hoặc tiếp xúc với hóa chất kéo dài.
Bệnh bẩm sinh đường mật bao gồm nang ống mật chủ, nang đường mật trong gan, rối loạn chuyển hóa thiếu hụt alpha 1 –antitrypsin cũng là một yếu tố nguy cơ gây bệnh.
Tỷ lệ mắc ung thư đường mật cao nhất ở nhóm tuổi 60-70 tuổi. Trong độ tuổi từ 60 tuổi trở lên, tỷ lệ mắc bệnh ung thư đường mật ở nữ giới gấp 2,5 lần so với nam giới còn dưới 40 tuổi thì tỷ lệ nữ giới mắc bệnh gấp 1,5 lần nam giới.
Giai đoạn đầu, ung thư đường mật tiến triển chậm, trải qua các giai đoạn tăng sản, loạn sản, thâm nhiễm tế bào màng đáy rồi sau đó mới xâm nhập vào mô đệm xung quanh như gan, tĩnh mạch cửa, bạch mạch, hạch vùng.
Mặc dù đã có rất nhiều những tiến bộ trong y học nói chung và điều trị ung thư nói riêng, bao gồm từ chẩn đoán hình ảnh, phẫu thuật, xạ trị hay điều trị hỗ trợ nhưng tiên lượng của ung thư đường mật vẫn rất xấu.
Do khó chẩn đoán sớm nên tại thời điểm phát hiện bệnh, khoảng 90% các trường hợp không thể áp dụng được các biện pháp điều trị triệt để. Do đó, thời gian sống trung bình của ung thư đường mật chỉ khoảng 6-9 tháng.
Dựa vào các triệu chứng cảnh báo ung thư đường mật lâm sàng, để có thể đưa ra chẩn đoán và phác đồ điều trị hợp lý cho từng bệnh nhân. Bác sĩ có thể chỉ định bạn thực hiện một số xét nghiệm hoặc thủ thuật y tế cần thiết để đưa ra chẩn đoán cuối cùng.
Bên cạnh các xét nghiệm hóa sinh công thức máu các xét nghiệm khác có thể được thực hiện để cung cấp thêm thông tin về ung thư ống mật. Bao gồm:
Chụp cộng hưởng từ cho biết chính xác ung thư đường mật.
Ung thư đường mật thường gây nhầm lẫn với các triệu chứng của ung thư gan. Thông qua các kết quả xét nghiệm, bác sĩ sẽ đưa ra chẩn đoán về tình trạng, tính chất và giai đoạn của bệnh. Từ đó đưa ra tiên lượng điều trị cho từng bệnh nhân.
Trong quá trình hội chẩn phương pháp điều trị dựa vào giai đoạn phát triển, tác dụng phụ có thể xảy ra, thể chất…các bác sĩ sẽ xây dựng phương pháp điều trị phù hợp cho từng bệnh nhân. Hiện nay có một số phương pháp sau đang được áp dụng trong quá trình điều trị ung thư đường mật:
Phẫu thuật trong điều trị ung thư đường mật.