Kho báu mất tích của hoàng đế Juba (Phần 2)

  •  
  • 3.220

Ở tận cuối của cái hang dường như chẳng có gì lấy làm đặc biệt này là một căn phòng nhỏ, rất khó để xác định nó là do tự nhiên hay con người tạo ra. Du khách cho rằng những bức tường được trang trí bằng “những dấu hiệu của người da đỏ” – hình khắc cổ về những con vật kì quái, nét chạm bí ẩn, cùng những người đàn ông phục trang lạ thường; tất cả đều được thể hiện bằng những nét thẳng nguyên sơ đã bị phai mờ theo năm tháng.

Phần 1 -- Phần 3 -- Phần 4

Chắc chắn cái hang này từng là nơi cư ngụ của bộ lạc Kickapoo hoặc Shawnee, họ đã sống trên hạt Richland đến đầu những năm 1800. Kể từ thời điểm đó cho đến năm 1982 người ta mới suy nghĩ lại về nó. Các nhà khảo cổ, dù cho có biết đến sự tồn tại của cái hang, cũng không công khai cấm dân chúng đến gần hay cấm mọi người làm những việc mà họ thích ở đó.

Ngày 02 tháng 04, một người đàn ông 47 tuổi đã đi vào nơi tối tăm của hang động với đồ nghề là một chiếc đèn pin, cuốc chim và ba lô. Ông sống ở Olney, một thị trấn nhỏ nằm cách cái hang 15 dặm. Sinh ra ở tây Virginia, Russell E. Burrows đã chuyển đến nam Illinois khi tham gia quân đội Mỹ trong chiến tranh Hàn Quốc. Tại đây niềm say mê tìm hiểu lịch sử địa phương đã hình thành trong ông. Ông bắt đầu thu thập những đồ dùng hàng ngày trong quá khứ.

Chân dung được thể hiện khác thường của một quan chức cấp cao được lấy từ hang động phía nam Illinois.


Dần dần, ông đã thu được những cái móng bò, đinh hình vuông, lọ sắt, đèn lồng và cả những đồ chế tác từ thế kỉ 19 hoặc đầu thế kỉ 20 làm phong phú thêm bộ sưu tập của mình. Bản thân là một người thợ khắc gỗ, ông có thể hiểu rõ giá trị của những đồ vật làm bằng tay của những năm gần đây. Có lẽ những đồ vật cùng loại cũng có thể được tìm thấy ở cái hang nhỏ kỳ lạ mà ông từng được nghe kể. Ông tìm thấy nó nằm trơ trọi như nó vốn thế, ông dừng lại trong giây lát để quan sát bầu trời bất ổn, tiếng sấm rền báo hiệu điềm xấu ở đằng xa. Đúng như mô tả, bên trong cái hang rất nhỏ, có hàng rào tự nhiên không mấy ấn tượng bao xung quanh như những cái hang khác mà ông biết. Đi đến tận cùng, Burrows bước vào căn phòng. Có lẽ nó do con người tạo ra, nhưng tại sao lại có người tạo ra nó thì không ai biết. Người da đỏ lại làm những điều mà không một người da trắng hiện đại nào có thể hiểu được. Ánh sáng của chiếc đèn pin chiếu lên những hình vẽ còn chưa được gọt giũa tô điểm đó đây trên tường. Chúng sẽ tô điểm thêm sắc màu cho bộ sưu tập những đồ lặt vặt của ông.

Rõ ràng vào thế kỉ 19 chưa hề xuất hiện loại đinh đầu to. Thế nhưng sau nhát cuốc đầu tiên ông đã nhận thấy có gì đó lạ lùng. Nó không tạo ra âm thanh rắn chắc như ông nghĩ. Mà lại có tiếng vang nhỏ, như thể có một khoảng không trống rỗng ở mặt bên kia. Tò mò tìm hiểu thực hư về sự tồn tại của khoảng không bên ngoài, ông tiếp tục cuốc với một sự quyết tâm được khích lệ bởi âm thanh giống như tiếng vang vọng của tiếng cuốc từ một nơi nằm sâu trong quả đồi.

Công việc quả thực gian nan, nhưng Burrows là một người đàn ông khỏe mạnh. Chỉ sau 15 phút lao động đổ mồ hôi, những viên đá cuối cùng cũng phải khuất phục. Đột nhiên, chúng đổ nhào xuống nền đất, mở ra một căn phòng nhỏ khác. Không có gì phải tranh cãi, đây là một căn phòng nhân tạo. Nó là nơi bắt đầu của những bậc thang bằng đá dường như dẫn vào lòng trái đất. Ông chiếu đèn lên các bậc thang, cẩn thận đi theo ánh sáng vào màn đêm dày đặc. Bậc thang rất dốc, Burrows phải thận trọng đi nghiêng và cuối cùng cũng xuống đến nơi. Từ lối vào phía trên đến bậc thang cuối cùng ước chừng cũng khoảng 30 fit. Một cái hành lang dài, thẳp tắp chìm vào trong bóng tối trước mắt ông. Ánh sáng của cây đèn pin làm lộ rõ cái vẻ tĩnh lặng, nhớp nháp của phần bên trong hành lang khi Burrows cẩn thận tiến vào.

Chân dung một linh mục Xemit được thể hiện bởi túm tóc cột kiểu đuôi ngựa theo nghi thức và dòng chữ Do Thái ở bên trái; dòng chữ phía dưới là tiếng Numidia – một ngôn ngữ viết vùng Bắc Phi.

Nó được đục đẽo hoàn hảo, với những cây đèn dầu lỗi thời treo bên trên ở khoảng cách hợp lý. Trông chúng giống như bộ phim ông đã từng được xem về thành La Mã cổ đại. Ông bước đi thận trọng. Không khí nặng nề bởi những bí ẩn bao quanh, và cả những con rắn nữa, đặc biệt là loài hổ mang nguy hiểm chết người vốn rất ưa thích môi trường ẩm thấp trong lòng đất như thế này. May mắn là ông không gặp con rắn nào. Âm thanh khẽ khàng duy nhất mà ông nghe được chính là tiếng bước chân của mình trong không gian ngột ngạt. Đường hầm cứ kéo dài mãi, ông đi qua hàng tá chiếc đèn dầu đã tắt ngấm trên cả hai bên tường.

Chiếu ánh sáng đèn pin lên trần thấp, ông nhận thấy toàn bộ chiều dài của nó đều được phủ một lớp vết lửa hun – có lẽ là dấu tích của vô số chiếc đuốc từng qua đây, từ bao lâu ông không thể đoán được. Sau khi Burrows đi được khoảng 500 fit, hành lang dường như kết thúc đột ngột. Nó rẽ ngoặt sang bên phải. Chiếc đèn pin chiếu rọi một đoạn hầm dài, chạy thẳng phía trước quầng sáng đung đưa của bóng đèn.

Khi ông tiến vài bước thì một cánh cửa thấp đang mở hiện ra bất thình lình ở bên trái. Cúi mình đi qua cánh cửa, ông đặt chân vào một căn phòng nhỏ, gần như ngay lập tức ông loạng choạng ngã về phía sau do quá ngạc nhiên. Ánh sáng chói mắt của cây đèn làm hiển hiện một bức tượng đàn ông cao 5 fit được đúc bằng vàng đặc. Nó không đơn giản chỉ là hình tượng trưng của một người đàn ông bình thường. Dáng vẻ bao dung cùng với những cái lỗ trên cánh tay vươn dài rõ ràng đang khắc họa một chân dung cụ thể. Cách bức tượng một vài fit về phía sau bên trái, có một cái bục cao khoảng 3 fit. Trên đó đặt một cỗ quan tài cũng bằng vàng ở kích thước thật.

Hết choáng váng về phát hiện của mình, Burrows nín thở chiêm ngưỡng nét đẹp tinh tế của chúng nhưng vẫn ngần ngại không dám chạm tay vào. Ông gần như không tin vào mắt mình. Rời căn phòng, ông thấy có một vài căn phòng nữa nằm kế tiếp nhau...

Frank Joseph

(Còn nữa)

Trà Mi (Theo World Mysteries)
  • 3.220