Một nghiên cứu mới phát hiện, hàng nghìn ong đực tập trung quanh các "bãi yêu" chờ đợi ong chúa xuất hiện để giao phối.
Các chuyên gia từ trung tâm nghiên cứu London và Rothamsted thuộc Đại học Queen Mary đã sử dụng công nghệ radar để theo dõi đường bay của những con ong đực đang tìm kiếm bạn tình và theo tiết lộ bí mật về hành vi giao phối của chúng.
Họ phát hiện ra rằng những con ong đực có xu hướng tụ tập tại các "bãi yêu" trên không, đợi ong chúa đến để giao phối.
Các "bãi yêu" trên không của ong mật tương tự như bãi giao phối của hươu và gà gô.
Tuy nhiên, không giống như hươu hay gà gô, những con ong đực thường di chuyển giữa nhiều "bãi yêu" khác nhau để chờ đợi ong chúa dù bạn tình rất hiếm khi xuất hiện.
Từ lâu, các nhà nghiên cứu đã nghi ngờ rằng những con ong đực thường tập hợp thành đàn lớn, lên đến 10.000 cá thể để thực hiện một mục tiêu chung là giao phối với ong chúa giữa không trung.
Các nhà khoa học chưa biết rõ vì sao ong mật đực tìm được những "bãi yêu" giữa không trung để đến chờ ong chúa.
Nhưng các phân tích trước đây về hành vi này của ong đã sử dụng mồi nhử nhằm thu hút những con ong, làm dấy lên nghi ngờ ong tụ tập đông là do mồi nhử.
Tuy nhiên, nghiên cứu mới sử dụng công nghệ radar để theo dõi ong đực đã chứng minh việc ong tập trung thành đàn lớn vào thời điểm giao phối là tự nhiên.
Theo các nhà nghiên cứu, ong chúa khó theo dõi hơn, nhưng cũng bị thu hút về phía các "bãi yêu" - nơi hàng nghìn ong đực đang chờ đợi để giao phối.
Hiện các nhà khoa học vẫn chưa rõ làm thế nào các "bãi yêu" trên không của loài ong mật được duy trì qua các thế hệ để ong đực có thể tìm đến, đặc biệt là khi ong đực nở vào mùa hè và chỉ sống được 20 ngày khiến chúng không thể học hỏi từ các thế hệ trước.
"Những phát hiện của chúng tôi cho thấy, ong mật đực xác định được vị trí của các "bãi yêu" ngay sau chuyến bay thứ 2 mà không cần tìm kiếm rộng rãi, mất công. Điều này cho thấy, những con ong mật đực phải có khả năng nhận được thông tin hướng dẫn cần thiết để tìm đến bãi yêu. Chúng tôi đang tìm hiểu vấn đề này", nhà sinh thái học hành vi Lars Chittka, thuộc Đại học Queen Mary ở London cho biết.