Dù thắng hay thua trận thì cá đều rời trường đấu với nhiều vết thương trên mình. Chủ của con cá thắng trận ra về cùng với vinh quang và danh dự còn người chủ của con cá thua trận ra về với đôi chút thất vọng (nhà lai tạo thực sự cược rất ít tiền, chỉ dân cờ bạc mới thường cược với số lượng lớn). Con cá thắng trận thường được chọn để ép với một con cá cái tốt hay đem tặng cho bạn bè. Có con được đem bán nếu người mua ra giá cao. Chắc chắn rằng người ta mua cá thắng trận để đem về ép với con cá cái tốt và cho ra một thế hệ cá con chất lượng.
Lọ nuôi cá
Nơi đặt lọ nuôi cá: bên cạnh tầm quan trọng của việc bố trí phòng nuôi cá như đã thảo luận ở trên, việc sắp đặt lọ nuôi cá cũng quan trọng tương đương. Lọ nuôi cá nên được đặt trên kệ ở ngang tầm mắt tùy thuộc vào việc bạn thích đứng hay ngồi để quan sát cá của mình. Tôi khuyên là nên bố trí ở tư thế ngồi như vậy bạn có thể quan sát cá được thoải mái và lâu hơn nhờ thế mà bạn có thể phát hiện được một số chi tiết tốt hoặc xấu ở cá của mình. Điều này cần thiết cho việc huấn luyện cá sau này. Tôi thường dùng cách này để quyết định xem con cá nào được đem đi đá hay giữ lại cho dù theo kế hoạch cả hai đều có thể mang đi đấu. Một số người kê bàn cao lên cả gang tay và sử tấm ngăn chia bàn ra làm 2 phần. Với cách này họ có thể quan sát cá từ hai phía bởi vì các lọ cá được kê ngang tầm mắt. Họ cũng thích ngồi từ bàn làm việc để quan sát cá.
Đây là phương cách chuyên nghiệp để đánh giá cá. Số lượng lọ nuôi nên là số chẵn vì vậy mỗi con cá sẽ đối diện với một con khác khi tấm ngăn được lấy đi. Người nuôi nên che nắp lọ bằng chăn hay vải cotton. Nếu nhiệt độ trên 28 độ C thì chăn nên được tẩm ướt để giữ nhiệt độ lọ nuôi được ổn định. Nó cũng nên đủ lớn để có thể che kín mặt trước của lọ vào ban đêm (mặt kia đối diện tấm ngăn). Cách này chống được đèn chớp hay vật lạ thâm nhập và quấy rối phòng nuôi cá vào ban đêm và đảm bảo cá có thể được nghỉ ngơi hoàn toàn. Lọ cá nên được làm vệ sinh định kỳ để phòng bệnh và mặt bên phải thật sạch để cá dễ thấy đối thủ bên lọ đối diện.
Sự thay đổi về thời tiết và nhiệt độ dường như là nguyên nhân chính làm cá bệnh và giảm phong độ. Sự thay đổi nhiệt độ ở lọ cá có hai nguyên nhân, thứ nhất là cấu trúc của phòng nuôi cá (như thảo luận ở trên), thứ hai là sự thay đổi của thời tiết. Dù là nguyên nhân nào thì người huấn luyện phải có khả năng điều chỉnh nhiệt độ và cung cấp một môi trường thích hợp cho cá.
Các loại lọ nuôi cá: có hai loại lọ nuôi cá mà người huấn luyện thường sử dụng trong giai đoạn huấn luyện. Loại thứ nhất có đường kính khoảng 25 cm, cao khoảng 30 cm, hình tròn và chứa từ 10-15 lít nước. Loại lọ này được sử dụng trong tuần huấn luyện đầu tiên. Loại lọ thứ hai là loại dành cho các cuộc đấu cá. Ở Thái Lan, loại lọ truyền thống dùng để đá cá chứa khoảng 2 lít nước.
Loại và kích thước lọ liên quan trực tiếp đến hoạt động huấn luyện. Chúng ta sẽ đi sâu về vấn đề này trong phần huấn luyện.
Lọ cỡ nhỏ cũng cần thiết vào mùa đông hay khi nhiệt độ phòng xuống dưới 25 độ C. Cá đá không thích hợp với nhiệt độ dưới 28 độ C vì vậy loại lọ nhỏ dễ điều chỉnh nhiệt độ hơn. Nhiệt độ thấp làm cá lờ đờ và biếng ăn. Lọ nuôi cỡ nhỏ cũng kích thích tính hung dữ ở cá bởi vì cá luôn cạnh tranh lãnh thổ với nhau.
Chậu nuôi cá lớn thích hợp trong mùa nắng khi nhiệt độ phòng trên 28 độ C. Ở nhiệt độ cao, vi khuẩn hoạt động mạnh hơn trong khi cá lại dễ bị căng thẳng và nhiễm bệnh. Cá cũng bị sụt giảm trọng lượng nhanh hơn vì vậy chúng ta nên cho cá ăn càng nhiều càng tốt. Chậu nuôi cá lớn cũng có tác dụng giảm bớt căng thẳng cho cá.
Bên trong lọ nuôi cá: ngoài môi trường tự nhiên, cá đá sống nơi có nhiều cây cỏ và lá mục. Chúng tận dụng cây thủy sinh và vật trôi nổi để nhả bọt và ẩn dưới các lá cây mục. Sự hiện diện của thực vật thủy sinh bên trong lọ nuôi cá đóng vai trò rất quan trọng trong việc giảm căng thẳng cho chúng. Nó cũng là nơi nghỉ ngơi của cá vào ban đêm. Thực vật thường hút chất bẩn trong nước vì vậy nó làm sạch nước và giúp lấy đi chất bẩn khỏi lọ cá. Không nên thả đá và các vật thể khác vào lọ để tránh làm cá bị thương. Để biết rõ tình trạng của cá, người huấn luyện thường quan sát hành vi của nó trong lọ. Quan trọng hơn hết, người huấn luyện phải cung cấp môi trường nuôi dưỡng tương tự với môi trường tự nhiên của cá. Những thành phần của lọ cá mà người huấn luyện cần cung cấp gồm:
Thực vật thủy sinh: dù lọ nuôi nhỏ hay lớn thì người nuôi đều có thể thả rong để cá nghỉ ngơi và trú ẩn. Không nên thả rong nhựa vì tác dụng của nó không thể bằng rong thực, thậm chí có thể làm cá bị chấn thương khi huấn luyện. Cạnh sắc của rong nhựa có thể cứa vào mắt và vẩy của cá. Có hai loại rong thủy sinh, loại cứng và loại mềm. Các loại rong mềm như Cabomba aquatica hay Hygrophila difformis rất thích hợp với lọ nuôi cá lớn. Loại rong mềm thường dài, nhiều nhánh tỏa ra khắp lọ cá nên rất thích hợp để cá cái trú ẩn trong giai đoạn huấn luyện. Nhược điểm của loại rong mềm là nó dễ bị mục và gãy cành nên chỉ sử dụng từ 2-3 tuần. Các loại rong cứng như Dracaena sanderiana hay Echinodorus sp."ROSE" thích hợp cho cả lọ lớn lẫn nhỏ. Nhiều người lại thả cả hai loại rong chung trong một chậu lớn. Ưu điểm của loại cứng là nó có thể sử dụng được lâu hơn nhưng lại có ít cành để cá trú ẩn. Nên để ý đến đặc điểm của các loại thực vật thủy sinh, chẳng hạn cá đá phải ngoi lên mặt nước để thở do đó không nên thả các loại thực vật nổi như bèo (Eichornia speciosa) mà rễ của chúng có thể lan ra toàn lọ nuôi và gây khó khăn cho cá khi chúng thở (ngoại trừ khi nuôi cá trong một hồ chung có kích thước lớn). Phần lớn rong gồm cả lá và thân nằm ở tầng nước giữa và chỉ khoảng 10% ở trên mặt nước. Nên thay rong khi chúng hết hiệu lực và để tránh ô nhiễm. Dù sử dụng loại rong gì thì chúng cũng phải có sẵn ở địa phương. Nếu tự vớt được thì càng tốt. Bạn có thể trồng chúng trong hồ lớn hay trong chậu nhỏ. Tôi thường sử dụng loại cỏ địa phương mà chúng luôn có sẵn ở những nơi có đất và luôn thay toàn bộ cỏ mới mỗi khi thay nước.
Lá bàng hay lá chuối khô: đóng vai trò quan trọng trong việc phòng bệnh cho cá và cung cấp nơi trú ẩn cho cá trong lọ. Cho khoảng 1/4 lá bàng khô trên 1 lít nước. Nó sẽ làm nước hơi vàng. Cá thích sống trong điều kiện như vậy. Một số người tước nhỏ lá chuối thả vào lọ. Lá chuối khô có tác dụng tương tự lá bàng và có thể được dùng thay rong khi nó khan hiếm. Người nuôi cũng có thể sử dụng các loại lá khác như lưu ý ở phần trên. Kinh nghiệm chung khi chọn thực vật là nó phải cứng và không bị mục sau 3 ngày ngâm trong nước. Lá chuối cũng phải được lựa chọn từ những cây chuối có lá cứng cáp.
Đây là loại lọ thủy tinh đường kính 25 cm nhìn từ trên xuống. Chúng ta có thể thấy cá bơi vòng quanh lọ. Lọ tròn kích thích cá bơi vòng quanh. Loại cỏ địa phương và các mẩu lá chuối khô ngăn cản đèn chớp và những khuấy động từ phía trên.
Tổ bọt là dấu hiệu của sự mạnh khỏe và hung dữ của cá. Bọt càng nhiều lớp càng tốt. Người huấn luyện nên phá tổ bọt vào buổi sáng và quan sát cá xây lại tổ bọt vào ngày hôm sau.
Với lá bàng khô, lá chuối khô và thực vật thủy sinh, cá sẽ bơi lội thoải mái và thư giãn. Màu của nước ngả vàng như nước trà.
Người huấn luyện nên ghi chú về nguồn gốc và ngày huấn luyện lên lọ cá. Thông tin này giúp bạn nhớ ngày thay nước và huấn luyện đồng thời không nhầm lẫn với những cá khác nguồn gốc. Nên nhớ rằng cá khác nguồn gốc có thể có cùng màu sắc và hình dạng nhưng kỹ năng chiến đấu lại hoàn toàn khác nhau.
Thay nước: nước mới làm cá tươi tỉnh và linh động nhưng thay nước không đúng cách không những không có lợi mà còn có thể có hại. Việc thay nước cũng tùy thuộc vào kích thước của lọ nuôi cá. Lọ nhỏ cần được thay nước thường xuyên hơn lọ lớn. Người nuôi nên chuẩn bị nước và lọ mới 1 ngày trước khi thay và cứ 3 ngày thay một lần. Hòa chung nước ngâm lá bàng và lá chuối khô với nước mới thành một dung dịch đồng nhất. Dù là lọ nhỏ 2 lít hay lọ lớn 15 lít thì trong 2 ngày đầu tiên cũng không cần thay nước.
Vào ngày thứ 3 nước sẽ ngả màu trà đặc. Sử dụng ống nhựa để hút hết cặn bẩn dưới đáy và dính trên lá bàng và rong, lượng nước tối đa mỗi lần thay khoảng 30% nước trong lọ. Sau đó châm nước mới vào lọ cho đầy như cũ. Bạn nên thay nước vào khoảng 5-6 giờ chiều bởi vì nhiệt độ nước không thay đổi nhiều vào ban đêm. Lúc này màu nước sẽ hơi ngả vàng giống như ngày thứ 2, đây là nồng độ dung dịch lá bàng khô thích hợp. Bạn có thể thấy rằng cá sẽ rất linh động và dữ tợn khi tấm chắn được lấy ra và cá thấy đối phương ở lọ bên cạnh. Trong khi chúng đang phùng mang giương vây thì bạn có thể nhỏ thêm vài giọt đa sinh tố vào lọ. Vài người huấn luyện có thể cho thêm nước lá bàng khô nếu màu nước vẫn chưa được như ý.
Vào ngày thứ tư, bạn nên lấy đi 10% nước ở lọ nhỏ rồi thêm nước mới vào cho đầy như cũ. Lọ lớn chưa cần thay nước ngay nhưng vào ngày thứ sáu nó cần thay 30% lượng nước rồi đổ đầy lại như cũ.
Tuy nhiên việc thay nước nên được cân nhắc tùy theo từng trường hợp. Chất lượng nước trong lọ nuôi thể hiện chất lượng của những đối tượng mà bạn thả vô lọ chẳng hạn như lá bàng, lá chuối khô hay rong. Chúng thường làm cho nước trong hơn. Lá bàng khô chẳng hạn, nó có tác dụng đặc biệt là làm lắng cặn. Nếu nước không được trong thì hầu như là do lá chưa được phơi khô hoàn toàn. Nếu để vài ngày, chúng ta có thể thấy một lớp màng đục trên mặt nước, đó là dấu hiệu vi khuẩn phân hủy lá khô hay rong mục. Trường hợp này chúng ta nên thay nước và cho thêm lá khô vào. Nếu rong mục chỉ sau vài ngày thì đó cũng là dấu hiệu của tình trạng thiếu ô-xy trong nước.
Tuyển chọn cá
Trong chương này chúng ta sẽ tìm hiểu về cách tuyển chọn cá đá. Những con cá đá là loại Betta splendens đuôi ngắn được tuyển chọn kỹ càng để đem đi thi đấu. Cá đá bắt đầu được tuyển chọn từ hàng trăm năm trước cho đến tận ngày nay. Nguyên tắc tuyển chọn là đem lai tạo những con cá đá tốt nhất. Sự tiến bộ diễn ra một cách từ từ và chúng ta có thể thấy kết quả sau mỗi 5 năm. Ban đầu mục đích của việc lai tạo chỉ là để giải trí hay vui chơi tạm thời sau khi kết thúc công việc đồng áng. Người chủ của con cá thắng cuộc thu được nhiều tiếng tăm và vinh dự.
Người chủ thường lấy tên địa phương đặt cho dòng cá của mình để khẳng định sự ưu việt so với các dòng cá ở những vùng khác. Chẳng hạn, dòng cá ở tỉnh Pad Rew được cho là hay hơn dòng cá ở tỉnh Thonburi (nay thuộc Bangkok)…Vào thế kỷ 20 khi mà ảnh hưởng của văn hóa phương Tây lan rộng trên toàn châu Á và hoạt động kinh doanh trở thành động lực phát triển chủ yếu của nền kinh tế và xã hội thì mục đích của việc lai tạo cá chuyển dần từ thú vui thuần túy sang công việc kinh doanh kiếm lời. Các nhà lai tạo cố gắng đáp ứng nhu cầu của thị trường. Họ sản xuất cá một cách đại trà, chẳng hạn một nhà lai tạo có thể có đến 200 hồ hoặc hơn và cá thường có vẩy cứng đồng thời tấn công đối phương một cách tập trung hơn. Vào khoảng năm 1972, việc đặt tên các dòng cá chuyển từ biệt danh chẳng hạn như “Hanumana” sang số chẳng hạn dòng số 15, dòng số 63...Như vậy, việc lai tạo chịu tác động bởi lối tư duy đương đại như kinh doanh, số liệu và mạng ảo.
Cá đá đuôi ngắn được chia làm hai loại là cá đá thường và cá đá tuyển. Cả hai đều có chung nguồn gốc. Vậy cá đá tuyển là gì và nó có gì khác so với cá đá thường? Có 3 yếu tố cấu thành một cá đá tuyển:
Cá bố mẹ tuyển: bố mẹ của cá đá tuyển phải được tuyển chọn từ những dòng cá thắng trận trong trường đấu khắc nghiệt. Nguyên tắc chung trong việc lựa chọn cá để lai tạo đó là:
- Tấn công tập trung vào một trong nhiều vị trí sau: đuôi, miệng, nắp mang và bụng hay tùy theo cách tuyển chọn của nhà lai tạo.
- Cấu trúc cơ thể cân đối.
- Cách đá tốt: giỏi phòng vệ, biết đá đòn tạt ngang, đòn hồi mã và đòn liên hoàn (tức tấn công hai, ba lần liên tiếp)…
- Giỏi chịu đựng, bền bỉ: cá không được bỏ chạy dù bị thương rất nặng. Luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu bằng cách phùng mang hết cỡ khi thấy đối phương. Nhiều nhà lai tạo coi đây là yếu tố quan trọng hàng đầu, nhất là trong luật đá cá Thái Lan.
- Răng sắc: đây là đặc điểm được một số nhà lai tạo quan tâm khi lựa chọn cá giống mặc dầu đa số mọi người không quan tâm lắm bởi vì họ nghĩ rằng cá đá nào cũng đều có răng sắc và nhà lai tạo giỏi phải biết được lúc nào thì chúng ở tình trạng tốt nhất.
Việc lựa chọn cá bố mẹ hoàn toàn phụ thuộc vào cách thức và suy luận của mỗi nhà lai tạo. Điều này tạo sự khác biệt giữa nhà lai tạo này với nhà lai tạo khác dựa trên chất lượng của sản phẩm mà họ tạo ra. Cá bố nhất định phải là con cá thắng cuộc trên trường đấu. Cá mẹ thường được tuyển chọn từ dòng cá dai sức và có nhiều cá đực thắng trận.
Về cá đá thường, nhà tuyển chọn chỉ đơn giản lấy con cá đá bất kỳ ngoài trường đấu dù là thắng hay thua trận, hay dùng con cá có sẵn để lai tạo ra một số lượng lớn cá con. Nhà tuyển chọn có thể kết hợp nhiều dòng cá và nuôi chung trong một hồ lớn. Một số người còn bán những con cá đá tuyển kém chất lượng như là cá đá thường. Vì vậy đôi khi chúng ta thấy vài con cá đá thường có thể đá bại cả những con cá đá tuyển hạng nhất.
Nuôi và huấn luyện cá đá: nguyên tắc nuôi cá đá tuyển khác xa so với nuôi cá đá thường.
Yếu tố | Cá đá thường | Cá đá tuyển |
Thức ăn | Thức ăn khô, cho cá ăn không giới hạn. | Chỉ cho ăn thức ăn tươi: bo bo, cung quăng, trùn chỉ. Các loại thức ăn đông lạnh như sò, cá cần hạn chế tối đa. |
Nước | Thay hàng tuần, không cần quan tâm đến độ pH. | Thay nước và làm vệ sinh mỗi 2-3 ngày. Duy trì độ pH cao (có tính acid). |
Độ tuổi | 4-6 tháng | 7-12 tháng |
Cá bố mẹ | Bất kỳ | Cá thắng trận trên trường đấu. |
Mật độ nuôi | Nuôi nhiều lứa trong cùng hồ. Hồ 16 m2 có thể nuôi đến 5000 con. | Mỗi lứa nuôi một hồ. Hồ 2 m2 nuôi khoảng 200 con. |
Kích thước | Trung bình đến lớn | Nhỏ đến trung bình |
Kinh doanh | Khi cá đủ lớn để bán | Khi cá được kiểm tra và xác định là đủ chất lượng. |
Nguyên tắc tuyển cá: không phải cứ cá bố mẹ tốt là tất cả cá con đều tốt nhưng cá bố mẹ tốt là điều kiện cần để có cá con tốt. Phong độ của lứa cá còn phụ thuộc vào độ tuổi của chúng. Có lứa cá đạt phong độ tốt nhất khi mới được 5 tháng tuổi nhưng lứa khác có khi chỉ đạt phong độ khi được 7-8 tháng tuổi thậm chí lâu hơn 12 tháng tuổi. Nhiệm vụ của nhà lai tạo là xác định thời điểm đạt phong độ cao nhất của cá bằng cách cho lứa này đá thử với lứa khác. Có người lại cho con này đá với con khác và chúng ta gọi đó là kiểm tra nội bộ hay kiểm tra chất lượng đá của lứa cá. Mục đích của việc kiểm tra là xác định tiềm năng chiến đấu của cá. Rất nhiều người đem con cá vô địch nội bộ đi đá ở trường đá cá hay thách đấu với các đối thủ khác.
Thông thường, nhà lai tạo thường kiểm tra lứa cá từ 3-5 lần và nếu chúng không đạt chất lượng như ý thì người ta sẽ đem bán chúng như cá đá thường hay sẽ đợi vài tháng rồi thử lại. Một số nhà lai tạo không bao giờ kiểm tra cá hay tham gia vào trường đấu. Họ chỉ tập trung vào việc lai tạo cá mà thôi. Tuy nhiên, họ cũng phân phát cá mẫu ở mỗi lứa cho các tay đá cá chuyên nghiệp để thử cá cho họ. Nếu những người này quay lại để mua cá có nghĩa là lứa cá đó có chất lượng bởi vì những người đá cá chuyên nghiệp là những tay kiểm tra cá tốt nhất.
Năm đặc điểm của cá đá hoàn hảo
Cá đá sử dụng bản năng di truyền và thể lực cá nhân để đấu với đối phương. Nếu vài con trong lứa cá có kỹ năng chiến đấu riêng biệt thì chúng ta có thể tin rằng cả bầy cá sẽ đá cùng kiểu. Khi hai đấu sĩ được thả chung trong lọ thi đấu thì chúng sẽ kết hợp bản năng chiến đấu với thể lực sẵn có để đấu với đối phương. Sau đây là những yếu tố mà mỗi đấu sĩ phải có nếu muốn chiến thắng trong cuộc đấu.
- Dai sức
- Vẩy cứng
- Kỹ năng đá
- Răng sắc
- Cấu trúc cơ thể cân đối
Một cá đá lý tưởng phải hội đủ và kết hợp áp dụng tất cả các yếu tố kể trên vào thi đấu. Nhưng chất lượng lại là điều cần phải bàn đến ở đây. Trong điều kiện tốt nhất, tất cả cá đá tuyển phải hội đủ năm yếu tố nhưng mức độ còn tùy thuộc vào lứa cá và tình trạng thể lực của chúng. Ví dụ cá đá thường có thể có cấu trúc cơ thể thật tốt hay răng rất sắc và hoàn toàn dai sức nhưng thịt và vảy lại không rắn chắc hay kỹ năng chiến đấu bình thường; mà những điều này có được là nhờ sự chăm sóc và nuôi dưỡng của nhà lai tạo; vì vậy chúng dễ dàng bị cá có vảy cứng hơn hay kỹ năng chiến đấu tốt hơn đá bại. Mỗi yếu tố ở cá đá tuyển tối thiểu phải trên mức trung bình và một hay hai yếu tố vượt trội chẳng hạn như vảy cứng hay răng sắc. Nhưng làm thế nào để đánh giá về mức độ của mỗi yếu tố là cả vấn đề bởi vì không hề có quy định cụ thể nào để đánh giá về chúng. Các đánh giá hầu như chỉ dựa trên ý kiến cá nhân của các nhà lai tạo và tuyển chọn. Tuy nhiên, một số nhà lai tạo nghiêm túc lại không muốn đánh giá về cá của họ bởi vì họ biết rằng bản năng tự nhiên của một cá đá tốt là những sáng tạo bên ngoài cách đá thông thường, và chúng ta cũng không thể nuôi dưỡng hay huấn luyện cá để chúng đá tốt hơn là những gì chúng được di truyền. Chừng nào mà chúng ta chưa thể giải mã được các gen chiến đấu ở cá thì chúng ta cũng không thể dự đoán được chất lượng đá của chúng và chính điều đó làm cho cuộc đấu càng thêm phần bất ngờ và thú vị.
Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu cặn kẽ về từng yếu tố:
Dai sức: nghĩa là cá vẫn đá cho đến khi chúng kiệt sức hoàn toàn mà không hề bỏ chạy như người ta vẫn thường nói “đá chết bỏ”. Trong quá khứ, cá đá ở Thái Lan tập trung chủ yếu vào đặc điểm này. Tôi vẫn còn nhớ rằng cá có thể đá đến 6 giờ mà vẫn không có con nào chịu thua. Khi chúng tôi để chúng ở đó cho đến sáng hôm sau thì thấy chúng vẫn đang đá. Hiện tại, hầu hết các nhà lai tạo thường lai cá của họ với các dòng cá ở Việt Nam và Malaysia vì vậy các thế hệ cá về sau thường đá không dai sức nhưng đổi lại chúng có cấu trúc cơ thể tốt, vảy cứng và răng rất sắc. Bởi vì cá không còn dai sức, thời gian diễn ra một cuộc đấu thường giảm từ 4 giờ xuống còn 2-3 giờ khi một trong hai con cá bỏ chạy. Luật đá cá cũng được cải tiến để mang lại lợi thế cho con cá nào đá thật nhanh. Nhà lai tạo chỉ tập trung vào các đặc điểm như vảy cứng, răng sắc và mục tiêu tấn công mà bỏ qua đặc điểm dai sức. Như vậy việc bỏ qua yếu tố dai sức là để phù hợp với luật đấu cá hiện tại bởi vì người ta không có nhiều thời gian để tham dự vào các cuộc đấu quá dài. Chúng ta chỉ có thể biết được một con cá có thực sự dai sức hay không khi nó đấu với một đối thủ giỏi mà không hề bỏ chạy dù bị thương rất nặng. Như vậy kết quả tệ nhất là hòa và rất hiếm khi bị thua. Trường hợp cá đối phương quá khỏe thì dai sức là yếu tố đóng vai trò quyết định để thắng trận. Có rất nhiều trường hợp con cá đang chiếm ưu thế phải bỏ chạy khi nó không thể hạ gục đối thủ.
Vẩy cứng: vẩy được coi như là tấm áo giáp của cá. Cá bị thương càng ít thì hậu quả càng nhỏ và khả năng tấn công đối phương càng nhiều. Sự xuất hiện của cá đá vảy cứng ở Thái Lan bắt nguồn từ cá đá Malaysia. Cách nay mấy chục năm (1977) có một nhóm các tay đá cá đến từ Malaysia tham gia vào hàng loạt trường đấu ở Bangkok. Cá của họ hoàn toàn sậm màu, bơi rất nhanh và vảy có dạng tròn, nhỏ và rất cứng. Họ chỉ mang theo năm con và thắng hầu hết các độ. Lý do thắng trận duy nhất là cá Malaysia có vảy rất cứng mà cá Thái Lan không thể cắn lủng được. Thời đó, cá Malaysia đã gặt hái chiến thắng ở tất cả các trường đấu cá Thái Lan. Nhiều tay đá cá Thái Lan nhập cá với giá rất cao từ Malaysia về để đá các độ lớn và chia xẻ cho bạn thân. Những con cá đực đó được dùng làm con giống tạo ra dòng cá Thái Lan vảy cứng sau này. Nhiều nhà kinh doanh tuyên bố cá của họ được nhập từ Malaysia nhưng sự thực không phải vậy. Vài năm gần đây, cá đáViệt Nam với vảy cứng và thân dày cũng gia nhập vào dòng cá Thái Lan. Hiện tại, cá đá ở Thái Lan có nguồn gốc hỗn hợp và khó có thể xác định đâu là dòng cá thuần Thái Lan, Malaysia hay Việt Nam.
Cá có vẩy cứng có nghĩa là vẩy rất khó bong dù bị tấn công nhiều lần. Thực tế, việc sử dụng từ “vẩy cứng” là không chính xác. Bởi vì vẩy gắn vào thịt và thịt giữ vẩy, vì vậy nếu chúng ta gọi là “da dày” hay “cơ săn chắc” thì có lẽ chính xác hơn. Ngoài ra, để dễ hiểu tôi còn sử dụng từ vảy cứng với nghĩa là “cá khó bị thương”.
Có 3 yếu tố ảnh hưởng đến độ cứng của vảy đó là di truyền, độ tuổi và cách chăm sóc. Cá đá tốt nhất phải hội đủ cả 3 yếu tố này nghĩa là cha mẹ của chúng phải là những con cá vảy cứng nhất, nó phải được nuôi đến một độ tuổi thích hợp và được chăm sóc theo một quy trình thích hợp.
Kỹ năng đá: nghĩa là sự khôn khéo để chiến thắng đối phương. Sự khôn khéo phát triển trên nền tảng những đặc điểm di truyền mà cá được thừa hưởng từ bố mẹ. Có hai mức độ kỹ năng là kỹ năng cơ bản và kỹ năng nâng cao. Kỹ năng cơ bản được di truyền từ bố mẹ. Cá sẽ dùng kỹ năng này trong các cuộc đấu bình thường và với đối thủ kém hơn nó rất nhiều. Một vài con sẽ áp dụng kỹ năng nâng cao nếu gặp phải đối thủ khỏe mạnh và khó đá bại hơn. Những con cá có khả năng học hỏi và thích nghi với lối đá của đối thủ là những con cá đá siêu đẳng. Một ví dụ về lại cá này đó là nó có thể yếu thế hơn trong một giờ đầu nhưng nó có khả năng khắc phục và đá thắng đối phương vào giờ thứ hai. Dân chơi cá gọi những con cá như vậy là “cá tiền” vì nó có thể đá những độ mà thoạt trông có vẻ bất lợi hơn. Nhờ đó họ đặt cược ít tiền nhưng lại kiếm được nhiều tiền khi cá đá thắng.
Có hai cách mà cá có thể thắng cuộc bằng cách sử dụng kỹ năng chiến đấu:
- Cá đối phương quá dở nên nó có thể chiến thắng chỉ bằng cách áp dụng kỹ năng chiến đấu cơ bản. Vài con cá có cách đá mà đối phương rất khó tấn công nó chẳng hạn như lối đá luôn áp sát đối phương và tấn công từ phía sau. Cách đá này rất khó chịu.
- Tấn công vào nhược điểm của đối thủ. Mọi đấu sĩ đều có nhược điểm. Có dòng cá mà nhược điểm nằm ở miệng, dòng khác thì nhược điểm nằm ở đuôi…Một số cá đá rất tốt nhưng lại dễ bị thua nếu nó không thể hồi phục được trong cuộc đấu. Hay nói cách khác cá đá có kỹ năng có thể tìm ra nhược điểm của đối phương. Nó sẽ tập trung đá liên tục vào đó cho đến khi đối phương không thể chịu nổi. Nó phát hiện được nhược điểm nhờ phân tích hiệu quả của cú tấn công tức là nhược điểm của đối phương sẽ lộ ra một khi phần đó bị tấn công.
Răng sắc: Có hai loại răng, răng ngắn và răng dài. Cá răng ngắn thường bắt đầu cắn đối thủ sau khi đá hai giờ và chỉ đem đá khi đạt từ 8-12 tháng tuổi. Trong khi cá răng dài có thể cắn đối thủ ngay từ đầu và hầu như là cá non (tôi nói “hầu như” bởi vì có một số cá trưởng thành cũng có răng dài). Người chơi cá thường lẫn lộn về cá răng ngắn và răng dài, nhất là những người thiếu kinh nghiệm. Họ cho rằng cá răng dài tốt hơn vì nó có thể cắn ngay từ lúc bắt đầu cuộc đá nhưng đôi khi loại cá đá này thường bỏ cuộc sau khi đá chừng hai giờ vì chúng là cá non. Trong khi những tay đá cá chuyên nghiệp lại thích cá răng ngắn vì họ biết rằng loại cá này thường đá rất tốt kể từ giờ thứ hai trở đi. Cơ bắp của chúng thường phát triển và săn chắc do đó dù đá chậm nhưng chúng lại đá chính xác hơn và nhờ vậy mà tiết kiệm được sức lực. Vì vậy, chúng có thể duy trì cuộc đấu được lâu hơn và sau đó trả đũa lại đối thủ. Chúng ta thường thấy trường hợp cá răng dài bị mòn hết răng trong khi đá đối phương (tức là không thể đả thương đối phương được nữa).
Cấu trúc cơ thể cân đối: không giống như những yếu tố khác, cấu trúc cơ thể là phần mà chúng ta có thể quan sát bằng mắt, từ đó học hỏi và rút kinh nghiệm. Hầu hết những tay đá cá chuyên nghiệp đều cân nhắc yếu tố này trước tiên. Cấu trúc cơ thể là điểm lợi thế trước tiên khi cáp và đá độ. Tức là bạn có thể nắm phần thắng cuộc ngay khi chưa bỏ cá và lọ thi đấu. Trong thế giới động vật, những cá thể có kích thước lớn và cân đối hơn đồng loại luôn luôn chiếm lợi thế. Đấy là lý do tại sao hầu hết các tay chơi đều cố gắng cáp độ sao cho cá của họ lớn hơn cá đối thủ. Xét trên phương diện đá cá, con cá có cấu trúc cơ thể cân đối có khả năng đá lâu hơn và như vậy có nhiều cơ hội chiến thắng hơn. Với tôi, cấu trúc cơ thể cân đối là sự kết hợp hoàn hảo của nhiều bộ phận cơ thể. Một con cá có vây rách tươm đồng nghĩa với việc nó yếu đuối và nhút nhát trước đám đông. Vì vậy dù là vây dài hay vây ngắn thì nó cũng phải đầy đủ mà không bị rách.
Các dạng cấu trúc cơ thể
Trong phần này, chúng ta sẽ tập trung phân tích về các dạng cấu trúc cơ thể trên thực tế. Nếu định nghĩa rằng con cá đá hoàn hảo thuộc về “dòng cá chiến thắng rất nhiều trận trên trường đấu” thì trong thực tế, nó có thể là bất kỳ dạng cấu trúc cơ thể nào. Chúng ta cũng rất khó phân biệt rạch ròi sự khác biệt về cấu trúc cơ thể giữa con cá này với con cá khác. Chẳng hạn, tôi chỉ có thể mô tả về những con cá đang đá trong trường đấu như sau: có thân dày như dạng bản rô và dài như dạng bản lóc hay miệng cong như dạng bản thát lát. Chúng ta cũng không thể chắc chắn rằng dạng cấu trúc cơ thể này luôn chiến thắng dạng cấu trúc cơ thể kia. Mặc dù cấu trúc cơ thể luôn là yếu tố quyết định trong việc thắng hay thua trận nhưng cũng không thể bỏ qua các yếu tố dưới đây.
- Lợi thế khi cáp cá (con nào lớn hơn). Con lớn hơn luôn có nhiều cơ hội để thắng trận. Đây là nguyên tắc vàng của các tay chơi cá.
- Đỉnh điểm phong độ của cá. Cá đang ở phong độ cao sẽ hội đủ cả năm yếu tố ở mức độ cao nhất như mô tả ở trên. Đây là đấu sĩ mà bất kỳ tay chơi chuyên nghiệp nào cũng muốn sở hữu.
- Nắm được nhược điểm của đối phương. Đây là điểm khác biệt giữa người đá cá nghiệp dư và chuyên nghiệp.
Bởi vì các yếu tố này không thể thấy trước bằng mắt nên chúng ta chỉ có thể thấy được khi cá bắt đầu đá nhưng như vậy thì đã quá trễ rồi. Chỉ có đặc điểm sinh lý là những gì mà chúng ta có thể quan sát và đánh giá sơ bộ được về cá của mình và đối thủ. Nó có thể là lời gợi ý về kết quả trận đấu.
Để thực hành việc cáp cá, chúng ta có thể tóm tắt với ba vấn đề sau: cấu trúc cơ thể cân đối, cấu trúc cơ thể mảnh mai và cấu trúc cơ thể dị dạng.
Cấu trúc cơ thể cân đối
Mô tả: là dạng thân dày và tròn, nhìn chung là trông phải cân đối, miệng phải cong liền lạc với đầu và cũng vậy đối với lưng và đuôi. Vây đuôi và vây hậu môn tương xứng với thân, tức là không quá lớn hay quá nhỏ. Phải có dáng bơi khoan thai, khéo léo và tự tin.
Cách đá: nhanh và chủ công, tập trung chính xác vào các mục tiêu như miệng, bụng (hay vây ngực) và đuôi. Nếu cá có răng thật sắc, nó sẽ dễ dàng thắng cuộc.
Ghi chú: dù cho cá có cấu trúc cơ thể cân đối nhưng nó vẫn có thể thua trận nếu như da không dày, răng không sắc hay không được dai sức.
Cấu trúc cơ thể mảnh mai
Mô tả: tương tự như dạng ở trên nhưng nhìn chung hơi dẹp hay gầy hơn. Lưng thường nhỏ hơn loại thân tròn. Người chơi cá thiếu kinh nghiệm thường không phát hiện được điểm này và coi chúng như nhau nhưng dạng thân tròn có lưng thực sự lớn hơn. Dạng thân dẹp thường làm người mới chơi cá nhầm lẫn khi cáp với loại thân tròn dù rằng nó nhỏ hơn. Đây là nhược điểm khi quan sát từ mặt bên nhưng sẽ chính xác khi quan sát từ bên trên.
Cách đá: loại này thường có vây lớn, bơi và đá rất nhanh vì vậy nó giỏi cả phòng thủ lẫn tấn công. Mục tiêu chủ yếu nhắm vào đuôi và nắp mang. Loại cá này đá rất tốt trong một giờ đầu tiên nhưng nếu đối phương vẫn chịu đựng được thì nó sẽ đá chậm lại hay bỏ chạy ở giờ thứ hai. Cấu trúc thân mảnh mai không phù hợp với các cuộc đấu kéo dài hay nói cách khác, loại cá này không dai sức.
Ghi chú: vấn đề liên quan đến cấu trúc cơ thể mảnh mai đó là cá không thể chịu đựng nổi quá hai giờ nếu bị cáp với con cá lớn hơn. Vì vậy, cơ hội thắng lợi của nó là phải đá thật nhanh và cắn vào những vị trí được coi là nhược điểm của đối phương như miệng và vây ngực làm cho đối phương mất thăng bằng và không thể đánh trả.
Cấu trúc cơ thể dị dạng
Mô tả: cá có bất cứ phần thân thể nào không cân đối đều bị liệt vào loại cấu trúc cơ thể dị dạng. Ví dụ, cá có thân quá ngắn hay quá dài, thậm chí đầu quá lớn cũng vậy. Tuy nhiên, cá có thân quá dài thì vẫn tốt hơn là thân quá ngắn. Hầu hết cá có thân quá ngắn đều bị biến dạng ở vùng xương đuôi. Điều này có nghĩa là nó không thể bơi nhanh do đó không thể tấn công và phòng thủ tốt được. Một số cá thường tránh đòn bằng cách di chuyển lên phía trước nên càng tệ hơn vì rơi vào tầm tấn công của đối thủ và bị coi như là loại cá ngốc nghếch. Một số khác xương đuôi bị cong làm cho cá khó xoay trở và di chuyển.
Cách đá: bởi vì không thể bơi nhanh nên cách đá của loại này là phản đòn. Và bởi vì có thân ngắn và đầu to nên mỗi cú tấn công đều như búa bổ và cú phản đòn làm tăng lực đá lên gấp đôi. Mỗi cú đá đều mạnh mẽ và có thể gây tổn thương nghiêm trọng cho đối thủ ở vùng miệng. Mặc dù loại này thường chậm và có xu hướng phòng thủ nhưng các cú tấn công thường rất hiệu quả. Cơ hội thắng lợi của loại này là khi nó có thể cắn rách miệng đối thủ trước khi đối thủ có thể cắn nó. Điều thường thấy là cá chiếm thế thượng phong chỉ sau một đến hai cú đá cực mạnh vào miệng đối phương. Để đánh bại loại cá này thì cần sử dụng loại cá đá thật nhanh tập trung vào vây ngực để làm nó mất cân bằng.
Ghi chú: loại cấu trúc này thường xuất hiện khi lai cận huyết, có vảy rất cứng và dai sức. Chúng có thể trông rất quái dị bởi vì cấu trúc cơ thể bị dị dạng.
Các phương pháp huấn luyện cá
Bản tính tự nhiên của cá đá là thích yên tĩnh, cảnh giác và cư ngụ cố định ở một nơi. Chúng chỉ trở nên hung dữ khi ra sức bảo vệ lãnh thổ của mình. Đấy là lý do cá đá nên được nuôi cách biệt với những cá thể khác. Nếu có một con cá đá khác (ngoại trừ cá mái) xâm phạm lãnh thổ của nó thì nó sẽ phản ứng dữ dội bằng cách giương vây phùng mang để đe dọa. Cá đá thường được nuôi dưỡng trong không gian chật hẹp vì vậy mà các bài tập thể lực là điều cần thiết đối với bất cứ nhà lai tạo nghiêm túc nào.
Lý do cá cần được huấn luyện
- Để khỏe mạnh hơn, điều này cũng giúp phát triển hình dáng và màu sắc.
- Giúp cá nhanh nhạy, tập luyên thường xuyên giúp cá linh động hơn.
- Để cá sẵn sàng thi đấu.
- Phát triển năng lực tự nhiên và khắc phục nhược điểm.
Các bài tập huấn luyện
Có ba loại bài tập bao gồm rượt đuổi con cá nhỏ hơn để kích thích bản năng chiến đấu và mô phỏng cuộc đấu, khơi dậy bản năng giới tính tức khơi dậy bản năng thống trị tự nhiên của giống đực đối với giống cái và khuấy nước để giúp cá vận động nhờ đó được dai sức.
Rượt đuổi con cá nhỏ hơn: đổ cá vào chậu to khoảng 1 lít và để đó trong 3 ngày. Vào ngày thứ 4, chuyển cá sang hồ lớn 25 lít và thả thêm từ 5-7 cá cái và một ít rong để cá cái ẩn náu. Vào ngày đầu tiên, cá đực có thể chưa rượt đuổi cá cái nhiều lắm nhưng ngày thứ hai nó sẽ đuổi rát hơn. Mỗi ngày cho cá đực đuổi khoảng hơn một tiếng rưỡi. Kéo dài việc này khoảng từ 5-10 ngày thì cá đực sẽ phát triển thành cá đá tốt. Kể từ ngày thứ 3 trở đi chúng ta phải quan sát cá đực một cách cẩn thận. Cá đực giờ đã sẵn sàng để đem đi đá.
Khơi dậy bản năng giới tính: mục đích của việc huấn luyện là khơi dậy bản năng sinh sản từ đó kích thích bản tính hung dữ và tự vệ nơi cá. Trong bài huấn luyện này chúng ta sẽ thấy cá thể hiện toàn bộ vẻ đẹp và màu sắc của chúng. Thả một con cá cái thành thục (bụng căng tròn và hanh vàng) vào hồ huấn luyện rồi thả cá đực vào. Cá đực sẽ lượn xung quanh hồ và xòe vây thể hiện sắc đẹp của nó trước con cái. Lúc này nó không tấn công con cái (vì thực sự muốn bắt cặp). Không nên kéo dài bài tập quá 10 phút, chú ý không để cho chúng thực sự bắt cặp. Bài tập này cũng có ích cho cá cái. Một số cá cái rất sợ cá đực hay từng bị cá đực cắn nên bài tập này sẽ giúp cá cái dạn dĩ và mau chóng thành thục sinh sản. Vì cá cái luôn sẵn sàng đẻ trứng nên chúng ta phải quan sát kỹ càng. Đây là lúc tốt nhất để chụp hình cá vì là lúc chúng phô diễn tất cả dáng vẻ và màu sắc.
Khuấy nước: mục đích của bài tập này là làm tăng độ cứng cáp và khả năng chịu đựng của cá. Sử dụng một chậu tròn đường kính từ 15-25 cm, chiều cao khoảng 25 cm. Đổ đầy chậu bằng nước sạch rồi thả cá vào đó. Dùng tay khuấy nước từ từ và cá sẽ bắt đầu bơi ngược lại dòng nước. Bài tập này không nên kéo dài quá 5 phút và nên dừng lại ngay lập tức nếu thấy cá kiệt sức và bơi xuôi theo dòng nước. Đừng bắt cá tập luyện quá sức. Tập luyện quá sức đem lại hậu quả không tốt vì làm cá mất tự tin với sức mạnh của chúng. Ngày nay, một số người huấn luyện ở Thái Lan bỏ qua bài tập này cũng vì lý do trên. Một lý do khác nữa đó là cá có thể trở nên chậm chạp đi thay vì linh động hơn.
Đấy là 3 phương pháp huấn luyện mà người yêu thích cá đá có thể thực hành mỗi ngày để giúp cá khỏe, đẹp, sặc sỡ và hơn hết duy trì một cá đá chất lượng.
Cá đá như thế nào
Làm thế nào mà cá hoang dã trở thành cá đá hung dữ
Tôi không phải là nhà sinh học nên không thể giải thích tại sao loài Betta hoang dã lại trở nên hung dữ. Tôi chỉ có thể giải thích làm cách nào người ta huấn luyện chúng thành những đấu sĩ. Tôi thấy nhiều loài cá đẻ trứng rất hung dữ vì chúng phải bảo vệ tổ trứng và cá con. Cá đực thường gánh vác trách nhiệm này. Bản năng tự nhiên của các loài sinh vật là duy trì nòi giống. Ở Betta splendens, khi cá đực được nhốt riêng rẽ, nó sẽ coi lọ nuôi là lãnh thổ của nó, một vùng lãnh thổ mới. Nó sẽ bắt đầu xây tổ và dẫn dụ cá cái vào để đẻ trứng. Sau đây là hai lý do làm cho Betta splendens trở nên hung dữ:
- Cá phải đá để duy trì nòi giống. Chỉ con thắng cuộc mới có quyền bắt cặp sinh sản. Tổ bọt thể hiện tình trạng thể lực của con đực và cũng là cách để xác định lãnh thổ (khi thay nước hay bắt cá qua lọ khác, nó sẽ xây lại tổ chỉ sau một đêm. Tuy nhiên, điều này chỉ xảy ra vào mùa sinh sản mà thôi).
- Cá phải có khả năng bảo vệ tổ trứng và cá con. Vào giai đoạn này, cá đực có thể nhịn ăn. Vì vậy mùa sinh sản thường là vào mùa mưa để cá đực có thể tự vỗ béo trước khi sinh sản. Đây là giai đoạn mà cá đực hung dữ nhất.
Hai nguyên nhân ở trên lý giải tại sao mà loài Betta splendens lại rất hung dữ. Cá phải đá để duy trì nòi giống và để bảo vệ gia đình của chúng. Chúng ta rất thích thú khi quan sát cá đá giương vây để phô bày hết vẻ đẹp và màu sắc của chúng. Dù muốn hay không chúng ta cũng đồng thời thấy chúng thể hiện sự hung dữ. Nhà lai tạo có kinh nghiệm sẽ phân biệt được khi nào cá muốn đá còn khi nào nó muốn bắt cặp sinh sản. Khi muốn bắt cặp, nó sẽ giương vây, bơi vòng quanh và vẫy đuôi. Rồi nó sẽ dừng lại bên dưới rong hay bất cứ góc hồ nào và bắt đầu nhả bọt (bằng việc này, nó khẳng định vùng lãnh thổ của mình). Nó sẽ ngóc đầu lên mặt nước để thân mình gần như thẳng đứng và vẫy vẫy đuôi để dẫn dụ con cái. Nếu lúc này có con đực nào lạc vào tổ của nó thì nó sẽ chiến đấu một cách dữ dội. Khi cá đực muốn đá, nó sẽ thể hiện khác đi. Nó sẽ phùng mang và lao vào đối phương. Mắt nó sẽ tập trung vào đầu đối thủ và thở mạnh giống như đấu sĩ sắp sửa vào đấu trường. Nó sẽ cố giữ thăng bằng, tấn công và làm đối thủ mất kiểm soát. Nếu một con bắt đầu đá thì con kia sẽ trả đòn ngay lập tức.
Được biết, nông dân Thái Lan thường quan sát hành vi của loài Betta splendens trên đồng ruộng. Người Thái Lan có thói quen giải trí và vui chơi bằng nhiều môn thể thao, đặc biệt là kickboxing (còn gọi là Muay Thai) môn thể thao và võ tự vệ cổ truyền của Thái Lan. Những cuộc thi đấu giữa những đấu sĩ trẻ tuổi thường có kết cục máu me. Nông dân Thái Lan bắt những con Betta splendens hoang dã bên dưới những tổ bọt và nuôi trong lọ gốm (thời đó tất cả bình lọ đều làm từ đất sét). Khi kết thúc công việc đồng áng, người ta đem cá ra đá. Lọ gốm trong tiếng Thái gọi là “Morh” và cá đá nuôi trong lọ gốm gọi là “Plakat Luk Morh” (Luk có nghĩa đứa trẻ đến từ…hay thuộc về…). Plakat Luk Morh được thuần dưỡng để trở nên ngày càng hung dữ hơn. Quá trình lai tuyển chọn cũng làm chúng to và đậm màu hơn đồng thời kỹ năng đá của cá cũng ngày càng phát triển.
Lai tạo cá đá
Bằng kinh nghiệm kết hợp với những suy luận logic, các nhà lai tạo Thái Lan áp dụng nhiều nguyên tắc lai tạo khác nhau. Những nguyên tắc được sử dụng để tạo ra dòng cá đậm màu và lỳ lợm nhất trong khi vẫn duy trì hình dạng và cách thức đá. Có 3 kỹ thuật lai tạo chính là: lai cận huyết, lai tuyển chọn và lai chéo.
Lai cận huyết: người nông dân đem cá của mình đi đá với bạn bè. Thông thường con cá thua cuộc được thả về đồng. Con cá thắng cuộc được giữ lại cho lai tạo với con cá mái bắt được cũng ở vùng đó. Quy tắc này đảm bảo thế hệ kế tiếp cũng có cùng chất lượng với cha mẹ. Có một câu cách ngôn ở Thái Lan như sau: “trái không rụng xa gốc” và đây là nguyên tắc số một của những nhà lai tạo Thái Lan. Điều này cũng tương thích với kỹ thuật lai tạo hiện đại. Cách lai tạo này gọi là lai cận huyết, tức lai tạo giữa các thành viên trong cùng một gia đình, chẳng hạn cá bố lai với cá con. Tất cả cá con sinh ra đều có cùng màu sắc, hình dạng và kiểu đá; nhờ đó, nhà lai tạo có thể dự đoán cách đá và biết được nên cáp với loại cá nào ngoài trường đấu. Cách nay hơn 40 năm, những nhà lai tạo có thể phát hiện ra cá của mình chỉ thông qua cách đá. Lứa cá xuất sắc nhất được xem như là cột mốc quan trọng trong sự nghiệp của nhà lai tạo. Nhà lai tạo thường giữ kín cá cái và chỉ bán cá đực với giá rất cao hay đôi khi đem tặng bạn bè.
Lai tuyển chọn: trò đá cá rất phức tạp và thường dựa trên kinh nghiệm đá độ của nhà lai tạo. Thắng hay thua trận là điều không thể tránh được. Dòng cá thắng nhiều trận có thể bất ngờ bị thua không phải là một hai trận mà có khi thua hoài vì vậy mà cần phải cải tiến các lứa cá về sau. Nhà lai tạo lấy con cá tốt nhất của mình đem lai với cá tốt nhất của người khác hay cá trao đổi với các thành viên khác trong hội chơi cá. Lứa cá sinh ra được mong đợi có các đặc điểm ưu việt nhưng cách đá vẫn chưa được biết. Nó có thể tốt hơn hay tệ đi. Nhà lai tạo phải thử lứa cá trên trường đấu một hai lần để biết cách đá có được cải tiến hay không. Kỹ thuật này cũng được áp dụng với việc tuyển chọn ngẫu nhiên. Trong số hàng trăm cá trong bầy, chỉ có từ 2-3 con cá tốt nhất được chọn. Số cá còn lại được đem bán với giá rẻ.
Lai chéo: trò đá cá lan rộng từ làng mạc, tỉnh thành đến các quốc gia. Mỗi vùng lại thuần dưỡng cá theo cách mà họ thích. Một vài nhà lai tạo lấy cá giống từ miền nam, vài người khác lại lấy từ miền bắc (trung tâm lai tạo cá đá nằm ở những tỉnh ngoại ô Bangkok). Nhà lai tạo cũng có thể nhập cá giống từ các quốc gia khác như Việt Nam, Campuchia hay Malaysia. Sau đó họ cho lai cá của mình với dòng mới. Đôi khi họ nhập nhiều cặp rồi cho lai tạo trong môi trường mới. Kỹ thuật này mới phát triển gần đây và được kết hợp với cả hai kỹ thuật ở trên.
Các vị trí tấn công
Vị trí | Mô tả | Phần trăm | Ghi chú |
1 | Miệng | 50 | Khóa mõm và lặp lại |
2 | Hàm | 10 | Lặp lại |
3 | Nắp mang | 80 | Lặp lại |
4 | Bụng | 20 | Lặp lại |
5 | Vây ngực | 20 | Ngẫu nhiên |
6 | Gốc đuôi | 50 | Lặp lại hay ngẫu nhiên |
7 | Vây | 80 | Lặp lại |
8 | Thân | 20 | Ngẫu nhiên |
9 | Đầu | 10 | Hiếm khi và ngẫu nhiên |
Đòn trực diện: là cách tấn công cơ bản giống như các võ sĩ boxing. Loại tấn công này thường diễn ra trong 15 phút đầu tiên. Đây là giai đoạn thăm dò, cá sẽ cố áp đảo đối phương để giành chiến thắng. Một số cá sử dụng cách tấn công này trong toàn cuộc đấu.
Đòn liên hoàn: đây là cách tấn công thông minh, mỗi khi cá đá xong nó sẽ bồi tiếp một hai cú nữa.
Đòn hồi mã: đây cũng là cách tấn công thông minh. Loại cá đá đòn này giỏi tự vệ, nó sử dụng đuôi quất làm đối thủ mất thăng bằng rồi bất ngờ quay ngược lại tấn công một hai cú trước khi quay lại thế tự vệ. Nếu đối thủ quá kém, nó sẽ không bao giờ có thể học được cách tránh đòn.
Đòn phủ đầu: cá đá đòn này cực kỳ hung dữ. Nó tấn công đối thủ ngay lập tức khi vừa được thả vô chậu mà không hề lượn lờ, không đe dọa, không thăm dò đối thủ cũng không cần khởi động gì cả. Tuy nhiên, tôi thấy loại cá này không thể đá lâu dài. Tôi nghĩ chúng có nhiều phần trăm gen của loài cá đá hoang dã.
Cá về đâu sau khi đá?
Dù thắng hay thua trận thì cá đều rời trường đấu với nhiều vết thương trên mình. Để dưỡng cá, người nuôi sẽ thả nó trong ly nhỏ với một ít nước pha với vài giọt Acriflavine. Một số người sử dụng nước lá bàng ngâm để phục hồi cá. Chủ của con cá thắng trận ra về cùng với vinh quang và danh dự còn người chủ của con cá thua trận ra về với đôi chút thất vọng (nhà lai tạo thực sự cược rất ít tiền, chỉ dân cờ bạc mới thường cược với số lượng lớn). Con cá thắng trận thường được chọn để ép với một con cá cái tốt hay đem tặng cho bạn bè. Có con được đem bán nếu người mua ra giá cao. Chắc chắn rằng người ta mua cá thắng trận để đem về ép với con cá cái tốt và cho ra một thế hệ cá con chất lượng.
Sau khi cá bại trận phục hồi (thường là 5 ngày) người chủ sẽ cân nhắc xem nên thả nó xuống sông hay giữ nuôi như cá cảnh thường. Vài nhà lai tạo nuôi chúng trong các hồ nước sinh hoạt để chúng ăn cung quăng. Một số người thậm chí còn lai tạo cả những con cá thua trận nếu họ thấy nó có một số ưu điểm nào đó. Một số khác lai với dòng cá đuôi dài để đem lại sức mạnh cho các thế hệ về sau. Không có gì ngạc nhiên khi dòng cá đuôi dài rất mạnh khỏe và giỏi chịu đựng. Chúng được lai tạo với mục đích nuôi làm cảnh.
---------------------------
Xem lại phần 1
Tác giả: Precha Jintasaerewonge (Website www.plakatthai.com)
Người dịch: Nguyễn Trung Đại (Bí danh vnreddevil trên Diễn đàn Cá cảnh)