Loài chó hoang này có tên gọi là dhole, một kẻ săn mồi vô danh ở vùng hoang dã của Ấn Độ.
Loài chó hoang dã với tuyến huýt sáo lạ kỳ
Mặc dù thoạt nhìn nó có vẻ giống một con cáo, nhưng những sinh vật này thực chất là một con dhole (Cuon alpinus). Còn được gọi là chó hoang châu Á hay chó hoang Ấn Độ.
Trên thực tế, loài chó hoang này giữ một vị trí độc nhất trong hệ thống phân cấp của những kẻ săn mồi, chúng thường đi săn theo bầy, giống như người anh em họ xa của nó, sói xám.
Chó hoang châu Á có thể thích nghi với nhiều môi trường sống
Chó hoang châu Á có nguồn gốc từ Nam Á. Khu vực phân bố lịch sử của nó trải rộng từ Ấn Độ tới Trung Quốc, Việt Nam và kéo dài xuống tới Malaysia và Indonesia, với đảo Java là giới hạn phía nam.
Chó hoang châu Á có thể dễ dàng được nhận biết nhờ lớp lông màu hung pha vàng, phần đuôi tối màu.
Chó hoang châu Á có thể thích nghi với nhiều môi trường sống. Thông thường nó sinh sống trong các môi trường rừng cây lá sớm rụng khô và ẩm cũng như rừng nhiệt đới rậm rạp như các rừng mưa nhiệt đới, để có sự ẩn nấp tốt cho việc săn mồi. Nó sống trong các khu vực có thảm thực vật dạng rừng nguyên sinh, thứ sinh, thoái hóa, thường xanh và bán thường xanh, các rừng cây gai khô, cũng như thảm rừng-trảng cây bụi. Tuy nhiên, nó cũng có thể sống trong rừng rậm núi cao, bãi cỏ và thảo nguyên thoáng đãng tại Kashmir. Phần thứ hai trong tên gọi khoa học của nó, alpinus, gợi ý rằng sói lửa có thể sống trong khu vực miền đồi núi.
Tại Việt Nam, chó hoang châu Á là loại thú quý hiếm nằm trong sách đỏ Việt Nam cũng như thế giới, thuộc danh mục cấm săn bắt. Loài chó hoang châu Á này phân bố ở Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Bắc Cạn, Quảng Trị, Bình Định, Kon Tum, Gia Lai, Lâm Đồng. Sói đỏ phân bố rộng ở các tỉnh miền núi từ Bắc xuống Nam, trừ các tỉnh đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long, hải đảo.
Còn được gọi là chó hoang châu Á, dholes từng là một loài chó hoang có phạm vi rộng bao phủ gần một nửa địa cầu. Ngày nay, dhole là một loài có nguy cơ tuyệt chủng với dân số ước tính dưới 2.500 con trưởng thành.
Mặc dù có kích thước nhỏ, nặng từ 12 đến 18kg, dholes vẫn được biết đến là một loài có lòng dũng cảm và sự nhanh nhẹn phi thường, chúng có thể hạ gục con mồi lớn hơn chúng rất nhiều. Những sinh vật nhanh nhẹn này thậm chí có thể nhảy thẳng tới độ cao hơn 2 mét trong không trung, một kỳ tích đáng nể đối với một loài động vật có kích thước như chúng.
Không giống như những con chó hoang dã khác, dholes là loài động vật có tính xã hội cao. Chúng sống và săn mồi theo đàn, có thể từ 5 đến 12 thành viên. Một số nhà quan sát đã ghi nhận các nhóm có quy mô lớn tới 40 cá thể, mặc dù điều đó rất hiếm.
Dholes là động vật sống trong rừng rậm, thảo nguyên, núi, rừng cây bụi và rừng thông. Màu lông của những con chó hoang châu Á này có thể từ xám than đến đỏ hoặc nâu với các điểm nổi bật màu vàng, trắng hoặc các màu sáng khác.
Hệ thống phân cấp trong đàn thường là bình đẳng, với trách nhiệm được chia sẻ ngang bằng nhau ở cả con đực và con cái. Những mối liên kết này giúp cả đàn phối hợp với nhau trong các cuộc đi săn và đảm bảo sự sống sót của những con non.
Khi hoàng hôn buông xuống, những con chó hoang này sẽ bắt đầu cuộc săn lùng của mình. Màn đêm yên tĩnh cũng theo đó mà rung chuyển với tiếng huýt sáo đặc trưng của chúng, một phần quan trọng trong hệ thống liên lạc của loài vật này. Mỗi thành viên, được hướng dẫn bởi những tiếng huýt sáo có những vai trò cụ thể khác nhau.
Mặc dù là thành viên của họ nhà chó, nhưng dhole không sủa hay hú, nhưng chúng có thể phát ra những tiếng như tiếng la hét, líu ríu và huýt sáo độc đáo mà chúng dùng để giao tiếp và săn mồi.
Với một cuộc tấn công phối hợp, chúng có thể hạ gục cả một con hươu sambar cường tráng. Dholes thường được biết đến với việc hạ gục con mồi có thể nặng gấp 50 lần trọng lượng cơ thể của chúng.
Không giống như hầu hết các loài chó, sau mỗi cuộc săn, chúng sẽ để những con non trong đàn ăn trước. Chúng hầu như luôn tránh con người, nhưng chúng không ngại đối đầu với những động vật nguy hiểm, như lợn rừng, trâu rừng hay thậm chí là hổ.
Những con chó hoang này từng phân bố khắp Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Á, nhưng 12.000 đến 18.000 năm trước, chúng đã bị giảm xuống môi trường sống hiện tại ở Đông và Nam Á. Người ta tin rằng dhole có nguồn gốc từ một giống chó rừng nguyên thủy được tìm thấy trong kỷ nguyên Pleistocene, nơi nó lảng vảng khắp châu Âu, Bắc Mỹ và châu Á.
Mặc dù có báo cáo về việc loài chó hoang này giết hổ, nhưng ở thời điểm hiện tại chúng ta vẫn chưa quan sát được điều này. Mặc dù có khả năng cùng tồn tại với những loài ăn thịt hàng đầu này, nhưng loài chó hoang Ấn Độ này vẫn phải vật lộn để tồn tại trong những khu vực có con người sinh sống.
Jan Kamler từ Đơn vị Nghiên cứu Bảo tồn Động vật Hoang dã tại Đại học Oxford nói với The Guardian: "Tôi coi chó dhole là loài chó cực đoan nhất do những đặc điểm hình thái và hành vi độc đáo của chúng, chẳng hạn như bao gồm những chiếc răng chuyên biệt dành cho loài siêu ăn thịt".
Không giống như các loài chó khác, dhole rất hiếm khi thể hiện hành vi chiến đấu với đồng loại. Dholes là loài ăn thịt. Chủ yếu chúng săn bắt động vật có vú có móng guốc theo bầy; thậm chí chúng còn được biết đến với khả năng ăn hơn 1 kg thịt trong vòng chưa đầy 4 giây
Một loài bị đe dọa tuyệt chủng?
Sự kết hợp giữa mất môi trường sống, bệnh tật từ chó nhà và sự cạnh tranh với những kẻ săn mồi lớn hơn như hổ và báo đã dẫn đến sự sụt giảm đáng kể số lượng của loài dhole.
Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) liệt kê dhole là loài có nguy cơ tuyệt chủng, với số lượng toàn cầu ước tính ít hơn 2.000 con trưởng thành.
Kate Jenks, một nhà sinh vật học bảo tồn của Sở thú Minnesota, người đã dành 9 năm đặt bẫy, đeo cổ và nghiên cứu về những con hổ ở Thái Lan, cho biết: “So với hổ, một con dhole không mấy 'quyến rũ'. Chúng có xu hướng bị bỏ qua bởi các nhà khoa học và nhà bảo tồn quan tâm nhiều hơn đến hổ và báo hoa mai sống trong cùng một khu vực”.
Trong tự nhiên, người ta quan sát thấy loài chó hoang này sẽ giao phối từ tháng 10 đến tháng 1, nhưng điều này có thể thay đổi trong điều kiện nuôi nhốt. Những con dhole cái có thể sinh 5-10 con mỗi lứa, nhưng đôi khi có tới 12 đến 16 con.
Bất chấp những khó khăn chồng chất, những kẻ săn mồi này đang dần thay đổi để thích nghi. Những con dholes đang điều chỉnh hành vi và chế độ ăn uống của mình với môi trường thay đổi nhanh chóng. Ví dụ, người ta đã quan sát thấy những con dholes trong tự nhiên chuyển từ hoạt động ban ngày sang hoạt động về đêm ở những khu vực có nhiều hoạt động của con người.
Để đối phó với số lượng ngày càng giảm của chúng, các nỗ lực đang được tiến hành để bảo vệ những kẻ săn mồi quyến rũ này. Nhiều sáng kiến khác nhau, cả chính phủ và phi chính phủ, đang thực hiện các bước để bảo tồn môi trường sống của dhole, ngăn ngừa bệnh tật và giảm xung đột giữa người và động vật.
Tốc độ phát triển của những con non thường tương tự như tốc độ phát triển của chó sói đồng cỏ. Đến sáu tháng tuổi, những con non sẽ đi săn cùng cả đàn, và khi được tám tháng tuổi, chúng có thể được các thành viên trong đàn giao những nhiệm vụ tương đương những con trưởng thành.
Thông thường, khoảng 3 tuổi, những con cái rời bầy để gia nhập đàn khác. Trong tự nhiên, tuổi thọ trung bình của những con vật này là khoảng 10 năm. Dhole nuôi nhốt trung bình từ 15 đến 16 năm tuổi thọ.
Nghiên cứu mới của Hội Động vật học London (Anh) cho thấy hiện tượng nóng lên toàn cầu ảnh hưởng trực tiếp đến loài chó hoang châu Á. Các nhà khoa học lo lắng rằng khi một loài trong tự nhiên tuyệt chủng thì có thể dẫn đến khủng hoảng môi trường, hoặc sự tuyệt chủng của những giống loài khác. Mất đi một loài sẽ phá vỡ sự cân bằng của hệ sinh thái, đặc biệt là cân bằng trong chuỗi thức ăn, dẫn đến sự tuyệt chủng, hay giảm mạnh về số lượng của nhiều loài khác.
Đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, loài chó này đang dần thay đổi để thích nghi. Chúng đã điều chỉnh hành vi và chế độ ăn uống trong tình trạng khí hậu biến đổi liên tục. Ví dụ như chúng chuyển sang hoạt động vào ban đêm thay vì hoạt động ban ngày như trước đây.
Các nhà khoa học cũng đang nỗ lực nghiên cứu để bảo tồn môi trường sống, giúp chó hoang châu Á ngăn ngừa bệnh tật cũng như giảm xung đột với con người. Hy vọng rằng thời điểm này vẫn chưa phải quá muộn để con người ra tay và thay đổi những hành động của mình nhằm cứu lấу loài chó đặc biệt này của châu Á.