Các nhà nghiên cứu làm sáng tỏ kỹ thuật xây dựng một ngôi mộ đá khổng lồ thời tiền sử, hé lộ ví dụ độc đáo về tính sáng tạo thiên tài và khoa học sơ khai ở cộng đồng thời Đồ đá mới.
Một nấm mồ khổng lồ ở miền nam Tây Ban Nha được ví như công trình ấn tượng nhất thời Đồ đá mới sau khi các nhà nghiên cứu kiểm tra những đặc điểm đồ sộ của nó. Mang tên Menga, ngôi mộ được cho là xây vào khoảng 5.700 năm trước và chứa hài cốt của vài trăm người cổ đại.
Mộ đá Menga được dựng từ những khối đá cự thạch. (Ảnh: Cavan).
Phát hiện công bố trên tạp chí Science Advances hé lộ những người xây dựng mộ đá Menga ở miền nam Tây Ban Nha sở hữu kiến thức kỹ thuật tiên tiến vượt xa hiểu biết trước đây. Phát hiện này thách thức quan điểm truyền thống cho rằng kỹ thuật xây dựng thời Đồ đá mới còn nguyên thủy về mặt bản chất, Newsweek hôm 23/8 đưa tin. Thay vào đó, nghiên cứu chỉ ra hiểu biết tương đối phức tạp về vật lý, địa chất, kiến trúc và kỹ thuật cách đây gần 6.000 năm.
Mộ đá Menga nằm ở tỉnh Antequera phía nam Tây Ban Nha là một trong những công trình cự thạch lớn và quan trọng nhất từ thời Đồ đá. Mộ đá là loại mộ tiền sử một buồng xây dựng bằng những tảng đá lớn gọi là cự thạch.
Xây dựng vào khoảng năm 3600 - 3800 trước Công nguyên, khoảng 1.000 năm trước kim tự tháp lâu đời nhất ở Ai Cập, mộ đá Menga bao gồm 32 tảng đá lớn hình thành phần mái, tường và cột trụ, với tổng trọng lượng 1.140 tấn. Menga, công trình cổ nhất trong số những mộ đá lớn trên bán đảo Iberia, từ lâu đã thu hút các nhà khảo cổ và sử gia do kích thước đồ sộ và độ phức tạp.
Ngôi mộ Menga được xây từ nhiều khối đá lớn. (Ảnh: MariaJose Blazquez).
Nặng khoảng 150 tấn, khối đá chốt vòm của Menga là tảng đá lớn thứ hai từng được sử dụng trong một ngôi mộ thời Đồ đá mới. Nhóm nghiên cứu đến từ nhiều trường đại học ở Tây Ban Nha mô tả Menga là công trình đá đồ sộ nhất thời đó ở châu Âu. Sau khi phân tích nhiều khối đá ngoại cỡ dùng để xây mộ, các nhà khoa học phát hiện thợ xây tiền sử chọn làm việc với đá mềm, đòi hỏi kỹ thuật và khả năng tổ chức hậu cần cực tốt để xây dựng.
Sử dụng một loạt kỹ thuật phân tích thạch học và địa tầng học, trưởng nhóm nghiên cứu José Antonio Lozano Rodríguez ở Đại học Alcalá và cộng sự nhận thấy những khối đá Menga chủ yếu là calcarenite, một loại đá trầm tích vụn có tính kết dính kém so với loại dùng trong kỹ thuật xây dựng dân dụng hiện đại. Loại đá như vậy đặc biệt khó vận chuyển mà không gây hư hỏng, có nghĩa người xây dựng Menga phải lên kế hoạch hết sức tỉ mỉ.
"Làm việc với loại đá lớn và mong manh này đòi hỏi đầu tư nhiều công sức không chỉ trong chế tác đá mà cả trong xử lý gỗ và dây thừng", nhóm tác giả nghiên cứu cho biết. "Thợ xây phải sử dụng lượng lớn gỗ để dựng giàn giáo dùng trong quá trình khai thác đá ở mỏ và chuẩn bị đường vận chuyển những tảng đá lớn".
Nằm trên đỉnh đồi, ngôi mộ được chọn hướng cẩn thận để cung cấp ba lợi thế lớn về vị trí. Ví dụ, vị trí của mộ nằm thẳng hàng hoàn hảo với ngọn núi gần đó tên "Lover’s Rock" và thời điểm Mặt trời mọc tạo ra một họa tiết ánh sáng và bóng tối phức tạp bên trong mộ. Ngoài ra, do công trình nằm hơi thấp hơn mỏ đá cung cấp vật liệu thô, thợ xây có thể vận chuyển những tảng đá lớn theo lộ trình xuôi theo sườn đồi. Cuối cùng, đất nền ở đỉnh đồi ổn định hơn nhiều so với đất sét mềm ở xung quanh, qua đó tạo ra phần nền chắc chắn và an toàn hơn cho ngôi mộ.
Bất chấp những lợi thế trên, bản chất xốp rỗng của đá tảng dùng để xây mộ khiến chúng dễ bị phá hủy bởi nước. Để khắc phục vấn đề, người thiết kế Menga ngăn cách các tảng đá lớn nhất bằng gò đất lớn làm từ nhiều lớp đá sa thạch và đất nén xen kẽ. Sau khi đánh giá các sáng tạo, nhóm nghiên cứu kết luận Menga đại diện cho thành tựu độc nhất vô nhị của kỹ thuật tiên tiến ở vùng Iberia và châu Âu thời tiền sử. Họ công bố nghiên cứu trên tạp chí Scientific Reports.