Các nhà địa lý cổ đại đã lập bản đồ các thành phố đến bản đồ toàn thế giới bằng cách sử dụng các mô tả du lịch, khảo sát và một lượng lớn toán học!
Sự phát triển của kỹ thuật lập bản đồ
Ngày xưa, bản đồ hầu hết chỉ là sự thể hiện bằng hình ảnh của một địa điểm đơn lẻ. Giống như bản đồ năm 600 trước Công nguyên mà người Babylon đã tạo ra, hầu hết các bản đồ đều chỉ về một địa điểm, địa hình cũng như các con đường và thành phố lân cận. Những bản đồ này được tạo ra với sự kết hợp của thông tin có sẵn từ lời kể của khách du lịch, các giả thuyết khoa học, tài liệu và báo cáo từ những người đi biển.
Anaximander: Người vẽ bản đồ đầu tiên
Bản đồ thế giới đã không xuất hiện cho đến thế kỷ thứ 5. Anaximander, người vẽ bản đồ đầu tiên đã mô tả thế giới vào thời điểm đó. Bản đồ gốc cho tới nay đã bị thất lạc, nhưng theo mô tả của Herodotus, đó là một bản đồ hình tròn trong đó đất được bao bọc trong một vùng nước.
Hy Lạp có thể được nằm ở trung tâm, cùng với biển Địa Trung Hải. Phần phía bắc là châu Âu và phía nam qua châu Á. Nó không có gì cụ thể lắm nhưng vẫn khá ấn tượng!
Kể từ thời điểm đó, bản đồ chỉ trở nên chi tiết hơn khi ngày càng có nhiều khu vực được khám phá và ghi lại trên bản đồ. Những bản đồ này vẫn theo mô hình hình tròn, được bao quanh bởi biển ở mọi phía, nhưng những bản đồ này có nhiều chi tiết hơn về các địa điểm ở châu Á và châu Âu.
Việc lập bản đồ không chỉ giới hạn ở người Hy Lạp, người Trung Quốc cũng làm bản đồ trên lụa và khối gỗ từ thế kỷ thứ 4.
Vào thế kỷ thứ 3, Eratosthenes đã tính toán thành công chu vi của Trái Đất và người ta xác định rằng Trái Đất thực sự có dạng hình cầu chứ không phải phẳng. Khám phá này cũng dẫn đến những thay đổi tiếp theo trong lĩnh vực bản đồ học.
Phép đạc tam giác: Một kỹ thuật toán học để đo khoảng cách
Bạn có thể ngạc nhiên nếu tôi nói rằng việc lập bản đồ được kết nối nhiều với toán học hơn là địa lý trong thời cổ đại, nhưng đó là sự thật. Lập bản đồ về cơ bản là một nghệ thuật sử dụng các phương pháp toán học như phép đạc tam giác! Vị trí của một điểm C có thể tìm ra bằng cách đo góc của nó với 2 điểm A, B đã biết trước; đây là kỹ thuật được sử dụng phổ biến nhất trong thời gian đó. Phương pháp tam giác này vẫn được sử dụng cho đến ngày nay nhưng theo một cách phức tạp hơn nhiều.
Bản đồ Eratosthenes
Tấm bản đồ Eratosthenes.
Eratosthenes cũng phát triển một mạng lưới giúp ông xác định vị trí các địa điểm. Ông chỉ định một tuyến đi qua Rhodes và các Trụ cột của Hercules (Gibraltar ngày nay) là một trong những tuyến chính trong mạng lưới của mình. Đường này chia thế giới thành hai phần khá bằng nhau và xác định phạm vi đông-tây dài nhất được biết đến.
Ông đã chọn đường xuyên qua Rhodes làm trục chính cho các đường lưới bắc-nam. Sau đó, ông vẽ bảy đường thẳng song song trên cả hai trục chính, tạo thành một lưới hình chữ nhật. Nhờ sự trợ giúp của lưới này mà ông ấy đã có thể xác định được vị trí của các địa điểm trên bản đồ thế giới đầu tiên!
Bản đồ của Ptolemy
Ptolemy đã tạo ra bản đồ thế giới bằng cách sử dụng kinh độ và vĩ độ mà chúng ta vẫn sử dụng ngày nay. Tác phẩm của Ptolemy tương tự như bản đồ của Eratosthenes, nhưng tác phẩm của ông được công nhận nhiều hơn, do ông không chỉ làm bản đồ mà còn viết một cuốn sách về cách ông vẽ bản đồ.
Công việc của ông dựa trên công trình của những người tiền nhiệm, nhưng cuốn sách về địa lý của ông đặc biệt ở chỗ ông giải thích quy trình từng bước vẽ bản đồ để mọi người có thể sao chép kỹ thuật tạo bản đồ ở bất cứ đâu. Cuốn sách của ông sau đó đã được dịch và giúp người Ả Rập tái tạo bản đồ của ông, cũng như bổ sung thêm các chi tiết vào bản đồ thế giới.
Bản đồ dần dần trở nên chi tiết hơn nhiều khi các khu vực mới được khám phá và viết ra giấy. Ngoài ra, những tiến bộ về toán học và thiên văn học đã giúp hoàn thiện bản đồ thế giới như những gì chúng ta biết và yêu thích ngày nay!
Vẽ bản đồ bằng phương pháp đo chân
Bản đồ được vẽ bằng phương pháp đo bằng chân.
Để khảo sát vẽ bản đồ, người xưa chỉ có thể đo đạc bằng bước chân và vẽ ra điều mình nhìn thấy. Phương pháp này rất vất vả và mất nhiều thời gian dẫn đến độ chính xác của bản vẽ cuối cùng không được đảm bảo. Tuy nhiên tại thời điểm đó không còn phương pháp nào có thể làm tốt hơn.
Một thời gian sau, "xe trống ký lý" được người xưa phát minh ra với mục đích hỗ trợ việc làm bản đồ. Đây là một chiếc xe ngựa kéo có nhiệm vụ tính toán quãng đường đi. Mỗi khi cỗ xe đi được một dặm, hình nộm trên xe sẽ đánh 1 lần trống.
Cùng với đó là sự ra đời của 6 yếu tố khảo sát bản đồ: tỷ lệ, vị trí, khoảng cách, độ cao, góc nghiêng, đường cong. Hiệu quả của việc đo khoảng cách được cải thiện đáng kể và người khảo sát đã đỡ vất vả hơn nhiều.
Xe trống kéo.
Tuy nhiên trên thực tế, bản đồ học vẫn là một dự án khá lớn đối với người cổ đại. Mãi cho đến thế kỉ 19 ở phương Tây, nhà toán học Gauss tìm ra phương pháp chiếu đồ mới, giải quyết được vấn đề biến dạng của khối cầu trên mặt phẳng, lĩnh vực bản đồ học bắt đầu bước sang một trang mới.
Tại sao người ta làm bản đồ vào thời cổ đại?
Điều này không khó đoán vì mục đích của bản đồ không thay đổi qua nhiều năm! Bản đồ được tạo ra để tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều hướng và phác thảo các đặc điểm địa hình của một địa điểm nhất định. Bản đồ thường được tạo ra với địa điểm được đề cập ở trung tâm, điều đó có nghĩa là bản đồ thế giới ban đầu không tồn tại. Tuy nhiên, khi thương mại và du lịch tăng lên, con người đã khám phá ra các khu vực mới và do đó phát triển các bản đồ toàn diện và mở rộng hơn.
Việc lập bản đồ đặc biệt hữu ích đối với những người đi biển vì nó giúp họ đánh dấu các cảng và khám phá vùng lãnh thổ mà không bị lạc. Bản đồ cung cấp một giải pháp thay thế cho mô tả bằng văn bản; hơn nữa, các tuyến đường và tuyến đường thương mại được đưa lên bản đồ có thể tiếp cận nhiều đối tượng hơn so với những gì có thể được truyền miệng.