Nhiều người có thể biết, món khoai tây chiên còn có biệt danh là “French fries”, nghĩa là “món chiên của người Pháp”. Nhưng rất ít người biết, vào những năm 1700, loài cây này từng bị hoàng gia Pháp và Giáo hội cấm trồng. Khoai tây khi đó chỉ là thức ăn dành cho lợn.
Lí do? Khoai tây không phải một loài cây lương thực bản địa ở Châu Âu. Vì vậy, nó không xuất hiện trong Kinh Thánh. Vốn được người Tây Ban Nha đem về từ cuộc xâm lược Đế chế Inca của họ ở Nam Mỹ, khoai tây du nhập một cách tự nhiên vào Pháp.
Nhưng người Pháp tin rằng khoai tây đã khiến những người ăn nó mắc bệnh phong. Giáo hội thì nói Chúa không muốn con người dùng khoai tây làm thực phẩm. Cũng bởi vậy mà người dân Pháp sợ ăn khoai tây như sợ nước phép của phù thủy.
Lịch sử chỉ thay đổi sau khi Antoine-Augustin Parmentier, một dược sĩ thuyết phục được người Pháp trồng khoai tây. Ông đã phải dùng trăm phương ngàn kế, lợi dụng cả các thành viên trong hoàng gia để khiến loài cây này trở nên phổ biến.
Khi nạn đói hoành hành ở Châu Âu từ thế kỷ 16-19, cả lục địa đơn giản đã không thể tự nuôi sống mình. Cuối cùng, khoai tây đã cứu sống tất cả. Không những vậy, loài cây thần thánh của người Inca này còn đem đến sự thịnh vượng, thúc đẩy cách mạng công nghiệp, nuôi dưỡng quân đội và biến các nước Châu Âu thành những đế quốc hùng mạnh.
Ngày nay, tổng sản lượng khoai tây thu hoạch của toàn Châu Âu đạt cỡ 52 triệu tấn mỗi năm. Con số của riêng nước Pháp là 8 triệu tấn.
Câu chuyện về khoai tây bắt nguồn từ khoảng 13.000 năm trước ở Nam Mỹ, khi giống cây họ cà này còn mọc dại ở những vùng núi thuộc dãy Andes, phía nam Peru và đông bắc Bolivia ngày nay.
Về mặt địa lý, Andes không phải địa điểm có thể nuôi dưỡng một loài cây lương thực chính. Nó là dãy núi dài nhất trên hành tinh, cao hơn 6.700m và chắn thành một dải 8.850km bên bờ Thái Bình Dương.
Có rất nhiều núi lửa hoạt động rải rác trên dãy Andes, kết quả của những đứt gãy địa chất thường xuyên đẩy khu vực này vào tình trạng phải đối mặt với động đất, lũ quét và sạt lở. Ngay cả trong những ngày yên bình nhất, khí hậu của Andes vẫn rất khắc nghiệt để một loài cây lương thực có thể sinh sôi.
Nhiệt độ trên núi có thể dao động từ 24oC xuống mức đóng băng chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ. Không khí thì quá loãng để giữ nổi nhiệt. Ở một vùng đất như vậy, chỉ có ngô, quinoa và khoai tây mới có thể mọc được.
Người Inca là dân tộc đầu tiên thuần hóa được khoai tây và biến nó trở thành một loài cây lương thực chính. Các di tích khảo cổ cho thấy khoai tây đã được người Inca chôn cùng người chết cách đây 4.500 năm. Và những đồ gốm hình khoai tây, có niên đại 400 năm trước Công Nguyên được tìm thấy ở Peru cũng xác nhận sự sùng bái của người Inca với loài cây lương thực này.
Cũng phải, bởi nhờ có khoai tây, người Inca mới xây dựng được một đế chế hùng mạnh ở Nam Mỹ. Loại củ giàu tinh bột này đã cung cấp cho họ năng lượng để chinh phạt và thôn tính các bộ lạc xung quanh, những tộc người ăn ngô.
Người Inca cũng phát minh ra một phương pháp lưu trữ đông lạnh khoai tây, bảo vệ nó khỏi nấm mốc, chuột bọ và ngăn không cho khoai tây nảy mầm. Bằng cách này, khoai tây có thể được bảo quản trong hàng năm mà không bị mất giá trị dinh dưỡng.
Và cũng bởi vậy mà khoai tây trở thành một "đồng tiền" trong đế chế. Hoàng gia Inca có thể thu thuế từ những người nông dân bằng khoai tây, lưu trữ chúng trong các kho thực phẩm, rồi giải ngân cho các binh lính, thợ xây và nô lệ.
Trong khi người Ai Cập trồng lúa mì và lúa mạch để xây dựng lên những kim tự tháp vĩ đại, khoai tây đã giúp Đế chế Inca dựng lên những ngôi đền hoành tráng, những thành phố dát vàng lộng lẫy cho riêng mình.
Cực thịnh đến thế kỷ 15, Đế chế Inca bắt đầu suy yếu khi bước sang thế kỷ 16, đó cũng là thời điểm những người Châu Âu đầu tiên khám phá ra Châu Mỹ, giới thiệu các mầm bệnh mới vào lục địa. Sởi và đậu mùa đã lây lan từ Trung Mỹ vào Inca, gây ra những đợt dịch chết người không thể cứu chữa.
Cột mốc năm 1532 chính thức đánh dấu sự sụp đổ của đế chế, sau khi Francisco Pizarro González, một nhà thám hiểm người Tây Ban Nha mang theo 186 tùy tùng đổ bộ vào bờ biển Peru ngày nay.
Họ bắt cóc vua Atahualpa của Inca, cướp bóc mọi đền thờ và kho báu trên khắp đế chế. Sau khi đã lấp đầy cả một căn phòng với đầy vàng bạc châu báu, người Tây Ban Nha không quên ném vào xó thuyền một vài củ "nấm cục", khoai tây theo cách gọi của họ, chúng nhăn nhúm, bám đầy bùn đất trông chẳng có gì là quý giá. Vượt qua Đại Tây Dương, những củ khoai tây đầu tiên đã du nhập vào Châu Âu.
Các nghiên cứu lịch sử ước tính rằng, trong đợt cướp bóc của mình ở Inca, người Tây Ban Nha đã thu về một lượng vàng bạc tương đương với 45 triệu Euro ở thời điểm hiện tại. Nhưng ít ai có thể ngờ, thứ quý giá nhất mà họ mang về không phải là châu báu, mà lại là vài củ khoai tây bị vứt lăn lóc dưới sàn thuyền.
Từng đem đến sự cực thịnh cho Đế chế Inca, khoai tây tiếp tục "lây lan" sự thịnh vượng của nó đến cho những quốc gia ở Châu Âu, biến họ thành những đế quốc. Nhưng mọi chuyện không diễn ra đơn giản trong một sớm một chiều.
Khi được người Tây Ban Nha đem về từ Nam Mỹ, khoai tây chỉ nhận được những con mắt dè chừng. Vào năm 1570, một số nông dân Tây Ban Nha bắt đầu thử nghiệm trồng khoai tây trên quy mô nhỏ. Nhưng sau khi thu hoạch, củ của nó chủ yếu chỉ được dùng làm thức ăn cho lợn.
Cuối thế kỷ 16, khoai tây tìm được đường sang Italia. Đến đầu những năm 1600, nó đã có mặt ở Áo, Bỉ, Hà Lan, Thụy Sĩ, Anh, Đức, Bồ Đào Nha, Ireland và Pháp. Nhưng không ở đâu loài cây này được chào đón.
Có nguồn gốc từ Nam Mỹ, khoai tây tất nhiên không xuất hiện trong Kinh Thánh. Vì thế mà Giáo hội Công giáo cho rằng Chúa không muốn con người ăn khoai tây.
Hơn nữa, loài cây này có những đặc tính dị biệt hoàn toàn khác với với hiểu biết của người Châu Âu. Nó không mọc lên từ hạt, mà phát triển từ những mảnh củ.
Nếu người nông dân chôn nguyên một củ khoai xuống đất, nó sẽ mọc mầm và phát triển thành một cây khoai tây mới. Nếu họ cắt một củ ra làm tư, họ sẽ có tới bốn cây khoai con. Sự kỳ lạ này khiến khoai tây được đặt cho cái tên "táo quỷ", những quả táo nhăn nhúm sinh sôi trong lòng đất.
Một điều kỳ lạ nữa là khoai tây không hô hấp vào ban đêm. Những nhà thực vật học Châu Âu cuối cùng cũng xác định được loài cây này thuộc họ cà, một họ cây thường có độc tính. Cũng bởi vậy mà khoai tây thường bị cấm trồng hoặc chỉ được trồng giới hạn trong các vườn cây thảo dược.
Những cuộc thử nghiệm ăn khoai tây đầu tiên ở Châu Âu không mấy khi kết thúc tốt đẹp. Bởi người ta chỉ ăn những củ khoai nhộ lên khỏi mặt đất, nghĩa là khi chúng đã mọc mầm, họ thường bị ngộ độc thật. Một số nhà khoa học còn cho rằng khoai tây là nguyên nhân gây bệnh phong, chỉ vì củ của nó trông méo mó giống như những người mắc bệnh.
Denis Diderot, một triết gia người Pháp từng viết trong Bách khoa toàn thư (1751-1756), cuốn sách đầu tiên tóm tắt những tư tưởng khai sáng ở Châu Âu: "Bất kể bạn nấu nướng khoai tây như thế nào, cái rễ của của nó cũng là một loại thực phẩm bồn bột và vô vị".
Diderot coi khoai tây chỉ là một loại thực phẩm dành cho những người "ăn để sống". Những người nông dân, quân đội trong nạn đói có thể ăn khoai tây. Nó là một thứ thực phẩm gây chướng bụng, nhưng có thể cung cấp năng lượng để giúp họ sống sót.
Nạn đói, hóa ra, lại là cơ hội duy nhất giúp khoai tây có thể vươn lên cạnh tranh với lúa mì ở Châu Âu. Quay trở lại thời gian đó, đói là một thứ gì đó thường trực ở lục địa này.
Theo thống kê của nhà sử học Fernand Braudel, nước Pháp từng phải chịu đựng tới hơn 40 nạn đói trên quy mô toàn quốc, trong khoảng thời gian từ năm 1500 đến 1800. Nước Anh cũng rơi vào một tình trạng tương tự, với 17 nạn đói toàn quốc từ năm 1532 đến 1623. Cả lục địa đơn giản là không thể tự nuôi sống.
Frederick Đại đế, vua của nước Phổ, là người đầu tiên nhìn ra được tiềm năng của khoai tây trong việc chống lại nạn đói. Vào năm 1756, Frederick ban hành sắc lệnh Kartoffelbefehl, hay "Đạo luật khoai tây", bắt buộc mọi thần dân của mình phải trồng loài cây này.
Chính Frederick cũng là người phổ biến cụm từ "khoai tây" để thay cho cái tên mà những người nông dân hay gọi loại cây này là "nấm cục".
Việc thực thi sắc lệnh ban đầu diễn ra không mấy suôn sẻ. Ở nước Phổ khi đó có một câu nói "Là der Bauer nicht kennt, frisst er nicht", nghĩa là "Thứ mà nông dân không biết nó là gì, anh ta sẽ không ăn".
Kolberg, một thị trấn thậm chí còn trả lời sắc lệnh của nhà vua rằng: "Cái thứ đó [khoai tây] không có mùi, cũng không có vị, thậm chí những con chó còn không thèm ăn chúng, vậy chúng có ích gì với chúng tôi không?".
Để đối phó với sự chống đối này, Frederick đã nghĩ ra một kế. Ông cho trồng khoai tây bạt ngàn trên các trang trại Hoàng gia ở vùng Berlin bây giờ. Sau đó, Frederick cắt cử một đội lính canh làm nhiệm vụ bảo vệ cánh đồng.
Nắm được tâm lý của dân chúng, hễ thứ gì được cho bảo vệ nghiêm ngặt, họ sẽ nghĩ đó là thứ quý giá, Frederick Đại đế đã dặn những người lính canh giả vờ ngủ hoặc thường xuyên xao nhãng nhiệm vụ của mình. Điều này đã thực sự thu hút được sự chú ý của những tên trộm.
Hằng đêm, những tên trộm đều đến cánh đồng hoàng gia đánh cắp khoai tây. Chẳng mấy chốc, loài cây này được bán tràn ngập thị trường chợ đen. Những người nông dân quay trở lại quan tâm khoai tây vì nó được giá. Và thế là loài cây này đã xâm chiếm thành công mọi mảnh vườn ở Phổ, cứu sống người dân qua những mùa vụ lúa mì thất bát.
Khoai tây với đặc tính dễ trồng, dễ bảo quản và giàu năng lượng chính là nguồn lương thực đã nuôi sống quân đội Phổ trong chiến tranh Bảy năm (1756-1763), giúp Frederick Đại đế đánh bại cả liên quân giữa Áo và Pháp.
Antoine-Augustin Parmentier tham gia quân đội Pháp trong Chiến tranh Bảy năm, phục vụ như một bác sĩ quân y. Vào thời điểm quân Pháp thảm bại trước Frederick Đại đế, khoai tây đối với họ vẫn chỉ là một thứ thức ăn dành cho lợn.
Nhưng khi Parmentier bị bắt làm tù binh trong doanh trại của quân Phổ và bất đắc dĩ phải ăn khoai tây, ông nhận thấy rằng loài cây này không hề có độc, những quan niệm của người Pháp về khoai tây khi đó thực sự không đúng. Khoai tây bị ghẻ lạnh, cấm trồng và chỉ làm thức ăn cho lợn ở Pháp lại đang nuôi dưỡng và đem lại ưu thế cho quân Phổ.
Trong suốt 3 năm bị giam giữ ở Phổ, Parmentier thấy mình vẫn có thể ăn khoai tây để sống sót, thậm chí sống khỏe mạnh mà không hề bị bệnh. Nên khi được trả tự do để trở về Pháp vào năm 1763, ông đã sử dụng những kiến thức của một dược sĩ để tập trung nghiên cứu loài cây này.
Điều mà Parmentier tìm thấy là khoai tây không hề độc, với điều kiện người dân chỉ ăn những củ không có mầm. Trên cùng một diện tích canh tác, khoai tây có thể cung cấp một lượng calo gấp từ 2-4 lần so với các loại ngũ cốc khác. Parmentier nhận ra đó chính là một loại lương thực tuyệt vời, vấn đề chỉ là người dân Pháp sẽ không chịu ăn nó.
Để lật ngược lại tình thế, Parmentier được cho là cũng áp dụng một kế sách tương tự như Frederick Đại đế. Ông trồng các mảnh vườn khoai tây và cho người giả vờ bảo vệ chúng. Nhưng với trí thông minh của mình Parmentier biết công việc phải thực hiện từ trên xuống.
Ông đã liên tục cầm kết quả nghiên cứu của mình đi thuyết phục các bác sĩ, nhà khoa học, giới quý tộc và cả thành viên hoàng gia về lợi ích của khoai tây. Vui vẻ và cởi mở, hầu như tất cả đã trở thành những "KOL" trong chiến dịch "marketing" khôn khéo của Parmentier cho khoai tây.
Chuyện kể rằng trong một lần vua Louis XVI và nữ hoàng Marie Antoinette đi dạo trong khu vườn Versailles, Parmentier đã hái tặng mỗi người một bông hoa khoai tây. Nữ hoàng Antoinette đã cài bông hoa tím lên tóc còn nhà vua đặt nó lên khuy áo của mình.
Khi vua Louis XVI hỏi Parmentier về loài cây đó, ông đã xin được một mảnh trong khu đất hoàng gia để trồng khoai tây. Các cận thần sau đó cũng bắt chước nhà vua. Tin tức lan đi chiếm được sự tò mò của công chúng. Và đây là lúc Parmentier diễn lại bài mà Frederick Đại đế đã thực hiện ở Phổ.
Ông cho binh lính tỏa ra bên ngoài Paris, trồng các cánh đồng khoai tây rồi giả vờ canh gác. Người dân sau đó đã trộm khoai tây và mang về vườn nhà mình trồng.
Đến năm 1793, Parmentier tiếp tục viết và cho in 10.000 bản cẩm nang trồng khoai tây để phát về mỗi xã trên lãnh thổ Pháp. Ông cũng phát hành cuốn "Nấu nướng quốc dân", trong đó chứa tới hơn 20 công thức chế biến khoai tây, khiến nó trở nên ngon hơn và chinh phục được khẩu vị của người Pháp.
Và có thể bạn cũng đoán được, cuốn sách này đã dạy người Pháp cách làm món khoai tây chiên huyền thoại, "French fries":
"Đầu tiên phải đánh bột khoai tây, trứng và nước lại với nhau. Sau đó thêm vào một muỗng dầu, một muỗng eau de vie (rượu), muối và tiêu. Đánh đều hỗn hợp cho đến khi không còn cục bột nào. Bây giờ gọt vỏ khoai tây, cắt lát, rồi ngâm vào bột. Cuối cùng, vớt chúng và chiên cho đến khi miếng khoai có màu sắc bắt mắt".
Trước khi khoai tây trở nên phổ biến ở Pháp, những người nông dân chỉ sản xuất được vừa đủ lượng ngũ cốc để nuôi sống cả đất nước mỗi năm, miễn là không có gì xảy ra với mùa màng của họ. Đáng tiếc, đó lại là những điều hay xảy ra nhất. Mất mùa, thiên tai và cả chiến tranh thường khiến cho nguồn cung thực phẩm ở Pháp hết sức bấp bênh.
Hàng trăm nạn đói đã xảy ra dưới quy mô địa phương. Trung bình cứ 7 năm một lần, nước Pháp sẽ phải đối mặt với một nạn đói trên quy mô toàn quốc. Sự xuất hiện của khoai tây cuối cùng đã giải quyết được bài toán lương thực cho nước Pháp.
Chỉ sau khi bài toán cơ bản đó được giải quyết, nước Pháp mới tiến được tới Cách mạng (1789-1799) và sau đó là các cuộc chiến tranh của Napoleon (1803-1815).
Là một người ủng hộ ý tưởng về một nền Cộng hòa tự cung tự cấp, Napoleon đã khuyến khích việc trồng khoai tây. Ngay lập tức, sản lượng khoai tây của toàn nước Pháp đã tăng lên tới 15%.
Các đồng minh của Pháp nhìn vào bài học khoai tây cũng đã áp dụng rộng rãi giống cây trồng này, thậm chí kẻ thù của họ cũng học theo. Đến những năm cuối cùng của Chiến tranh Napoleon, khoai tây đã trở thành thực phẩm chính trong chế độ ăn của hầu hết người Châu Âu.
Nhận xét về giai đoạn lịch sử này, Christian Vandenbroeke, một nhà sử học người Bỉ từng nói: "Lần đầu tiên trong lịch sử Tây Âu, một giải pháp dứt khoát cho vấn đề lương thực đã được đưa ra".
Một mẫu đất trồng khoai tây và sữa của một con bò bây giờ có thể nuôi sống cả một gia đình, cung cấp tất cả các vitamin và vi chất cần thiết cho chế độ ăn uống lành mạnh. Khoai tây giàu vitamin C đến mức chúng đã giúp chấm dứt bệnh scurvy từng xảy ra tràn lan khắp lục địa.
Nó đã giải quyết được tất cả những nạn đói trên một dải đất 2.000 dặm kéo dài từ Ireland đến dãy Ural của Nga. Cuối cùng lục địa này cũng có thể tự làm ra được bữa tối cho chính mình.
Không những chỉ giải quyết nạn đói, khoai tây còn là thứ lương thực đã giúp toàn bộ Châu Âu trở nên phồn thịnh. Nguồn lương thực tăng nhanh đã dẫn đến tăng trưởng dân số. Điều này từng được nhà kinh tế học Adam Smith nhắc đến trong cuốn trong cuốn sách kinh điển của ông, "Sự giàu có của các quốc gia".
Ví dụ ấn tượng nhất về tiềm năng của khoai tây trong việc thay đổi mô hình dân số xảy ra ở Ireland, nơi khoai tây đã trở thành thức ăn chủ lực vào năm 1800. Khoảng 40% dân số Ireland không ăn bất kể một loại thức ăn rắn nào khác ngoài khoai tây. Và chỉ trong vòng hơn 60 năm, từ 1780 đến 1841, dân số của họ đã tăng gấp đôi lên 8 triệu người.
Điều đáng nói, đó không phải là kết quả của việc mở rộng công nghiệp hóa hay cải cách kỹ thuật nông nghiệp. Đó chỉ là hệ quả duy nhất của việc trồng khoai tây. Mặc dù Ireland có tập quán sở hữu đất đai rất lạc hậu so với Châu Âu thời kỳ đó, các đặc tính vượt trội của khoai tây đã cho phép ngay cả một người nông dân nghèo nhất ở nước này cũng có thể trồng được nó.
Không cần bất kỳ khoản đầu tư hay lao động nặng nhọc nào, khoai tây là thứ mà trẻ em cũng có thể trồng, thu hoạch và chế biến. Nó cũng không yêu cầu phải cắt, xay xát hay nghiền như lúa mì. Sự phồn thịnh từ khoai tây đã giúp giảm đáng kể tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, khuyến khích kết hôn sớm và gia tăng dân số.
Nancy Qian và Nathan Nunn, hai nhà kinh tế học tại Đại học Yale và Harvard đã thực hiện một nghiên cứu về ảnh hưởng của khoai tây đến quá trình bùng nổ dân số ở Châu Âu. Họ so sánh mức tăng trưởng dân số ở 132 nước vào thời điểm trước và sau năm 1700.
Kết quả thống kê cho thấy, dân số Châu Âu đã nhảy vọt từ 126 triệu vào đầu thế kỷ 18 lên tới 300 triệu vào đầu thế kỷ 20. Nơi nào khoai tây được trồng nhiều nhất cũng là nơi tăng trưởng dân số đạt mức cao nhất. Lần đầu tiên trong lịch sử, dân số bùng nổ không tạo ra những nạn đói hàng loạt, mà đơn giản chỉ đẩy người dân vào các đô thị chật chội.
Theo Qian và Nunn, khoai tây đã đóng góp 23-24% vào việc tăng trưởng dân số và khoảng 27-34% vào công cuộc đô thị hóa trong thời kỳ từ năm 1700 đến năm 1900.
Sự gia tăng dân số và đô thị hóa đã thúc đẩy tốc độ của cách mạng công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp mới phụ thuộc vào việc khai thác nhiên liệu hóa thạch.
Khoai tây khi đó được ví như một loại than đá thứ hai, bởi nó nuôi dưỡng những lực lượng lao động chính đóng góp vào công cuộc đổi mới này. William Hardy McNeill, sử gia, tác giả cuốn sách "Sự trỗi dậy của Phương Tây" từng nhận xét:
"Chỉ cần cung cấp một mức tiền lương đủ để sinh hoạt, hoặc một thứ gì đó rất gần với mức sinh hoạt phí, một lượng lớn người di cư từ nông thôn sẽ sẵn sàng có mặt để điều khiển các máy móc mới và thực hiện tất cả các nhiệm vụ khó khăn phục vụ một xã hội đô thị hóa".
Và như một công thức tự nhiên, dân số phát triển mạnh ở Châu Âu sau các mùa màng khoai tây sẽ lấp đầy vào hàng ngũ quân đội, hải quân đế quốc, đem đến những chiến thắng cho họ ở những miền đất xa xôi, đẩy hàng triệu người di cư ra các vùng thuộc địa và vào phía đông Siberia.
"Một điều chắc chắn, nếu không có khoai tây thì nước Đức sau năm 1848 không thể trở thành quốc gia công nghiệp và thế lực quân sự hàng đầu ở Châu Âu. Nga cũng không thể lờ mờ đe dọa biên giới phía đông nước Đức năm 1891", McNeill lập luận.
Như cái cách người Inca đã phát triển thành một đế chế hùng mạnh ở Nam Mỹ, từ giữa thế kỷ 18, khoai tây lại đưa một số quốc gia Châu Âu trở thành những đế quốc thống trị thế giới.
"Nói tóm lại, tất cả các đặc tính thống trị của châu lục này trong hai thế kỷ, từ 1750 đến 1950 bao gồm sự bành chướng và tranh giành thuộc địa của các đế quốc ở hải ngoại, quá trình họ nhập cư vào Hoa Kỳ cũng như các vùng đất khác trên thế giới, đều cơ bản xuất phát từ việc khoai tây đã mở rộng nguồn cung cấp thực phẩm ở Bắc Âu", McNeill khẳng định.
Đây chính là lần thứ hai khoai tây đóng vai trò quan trọng trong việc thay đổi xã hội loài người trên toàn thế giới.