Những nghiên cứu của Elizabeth Stern dẫn đường cho khoa học hiện đại về phòng ngừa, điều trị và chẩn đoán ung thư cổ tử cung, thế nhưng không nhiều người biết đến tên bà ấy.
Có một thực tế đáng tiếc rằng lịch sử đã đánh giá thấp sự đóng góp của những người phụ nữ.
Elizabeth Stern có lẽ là một trong những bác sĩ-nhà khoa học quan trọng nhất từng hoạt động trong lĩnh vực dịch tễ học và ung thư vào giữa thế kỷ 20, nhưng không chắc bạn biết đến bà ấy. Bạn sẽ không đọc được nghiên cứu của Stern trong sách giáo khoa y khoa, hay tìm thấy chúng tại bất kỳ hội nghị chuyên đề nào nhưng những đóng góp của Stern thật sự đã đặt nền móng cho y học hiện đại.
Elizabeth Stern sinh ngày 19/9/1915 tại Cobalt, Ontario. Bà là con thứ năm trong số tám đứa trẻ được sinh ra bởi George và Sarah Stern, những người di cư từ Ba Lan để thoát khỏi chủ nghĩa bài Do Thái ngày càng gia tăng và bất ổn chính trị ở Đông Âu. Bà tốt nghiệp Trường Y khoa Đại học Toronto vào ngày 8/6/1939, ở tuổi 23. Khi còn ở Đại học Toronto, bà gặp Solomon Shankman, một sinh chuyên ngành hóa học, và họ kết hôn với nhau.
Elizabeth Stern. (Ảnh: Janet Williamson).
Dường như bà dành cả cuộc đời mình để nghiên cứu về tế bào học. Tế bào học liên quan đến việc chẩn đoán bệnh ở cấp độ tế bào. Công cụ tế bào học đầu tiên được sử dụng rộng rãi ở Hoa Kỳ là xét nghiệm kính phết Pap, được áp dụng vào những năm 1950 để sàng lọc bệnh nhân ung thư cổ tử cung. Xét nghiệm Pap đã giúp giảm hơn 70% tần suất và tỷ lệ tử vong do ung thư cổ tử cung so với những năm 1950.
Tuy nhiên, chỉ một số ít bác sĩ trong những năm 1960 quan tâm đến nghiên cứu sâu hơn về kết nối hình dạng và hình thái tế bào với bệnh tật. Như nhà nghiên cứu Rosenthal đã nhận xét: “Lĩnh vực tế bào học tại thời điểm đó còn vô cùng non trẻ. Rất nhiều người nghiên cứu bệnh học và y học nói chung, nhìn nó như thể đó là phù thủy".
Một trong những mối quan tâm chính của Stern là vai trò của chứng loạn sản trong sự phát triển ung thư cổ tử cung. Chứng loạn sản là sự phát triển tế bào bất thường không xâm lấn đến các mô xung quanh và thường quay trở lại hình thái biểu mô bình thường.
Trong những năm 1950 và 1960, giai đoạn đầu của ung thư cổ tử cung không được xác định rõ và mặc dù chứng loạn sản được ghi nhận trong kết quả kính phết tế bào, nhưng nó được xem là một nguyên nhân không đáng lo ngại. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu chứng loạn sản là biểu hiện của một điều gì đó nghiêm trọng hơn? Stern đưa ra giả thuyết rằng những bất thường về hình thái này có thể là dấu hiệu sớm của sự phát triển ung thư cổ tử cung.
Bà dành cả cuộc đời mình để nghiên cứu về tế bào học.
Để trả lời câu hỏi này, Stern và nhóm của bà đã tiến hành các nghiên cứu dịch tễ học dài hạn bằng cách thu thập các mẫu xét nghiệm Pap từ hơn 10.000 phụ nữ ở Hạt Los Angeles. Họ cẩn thận ghi lại kết quả của bệnh nhân khi bắt đầu nghiên cứu và xuyên suốt quá trình nghiên cứu kéo dài 7 năm.
Bà phát hiện ra rằng những bệnh nhân được chẩn đoán mắc chứng loạn sản khi bắt đầu nghiên cứu có nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung cao hơn đáng kể. Stern tiếp tục tiến hành hơn một chục nghiên cứu dịch tễ học cung cấp bằng chứng gần như không thể bác bỏ rằng chứng loạn sản là một dấu hiệu sớm của ung thư cổ tử cung.
Thật khó để nói hết tầm quan trọng của phát hiện này và những lý thuyết đổi mới của bà đối với cộng đồng y học lúc bấy giờ. Ngày nay chứng loạn sản được xác định trong các sàng lọc ung thư cổ tử cung thông thường bằng xét nghiệm Pap và bệnh nhân được theo dõi chặt chẽ. Ý tưởng cho rằng chứng loạn sản có thể được coi là một yếu tố gây ung thư phần lớn đến từ nghiên cứu đột phá và phi thường của Stern.
Tế bào ung thư cổ tử cung dưới kính hiển vi. (Ảnh: HeitiPaves).
Trong tất cả các thành tựu của Stern, có lẽ di sản lâu dài nhất của bà nằm trong công nghệ hiện đại của thử nghiệm Pap. Bà đã hợp tác với Phòng thí nghiệm Động cơ phản lực (JPL) và Rosenthal, sau đó là nhà nghiên cứu tế bào học tại U.C.L.A, để áp dụng công nghệ hình ảnh máy tính của NASA vào sàng lọc Pap.
Stern đã phát triển một hệ thống lấy mẫu dựa trên chất lỏng để cô lập và làm phong phú biểu mô cổ tử cung, và giúp xác định các tiêu chuẩn tế bào cho các chương trình máy tính. Công việc bà đã làm tại JPL đã cách mạng hóa việc sàng lọc Pap cho ung thư cổ tử cung, và kỹ thuật lấy mẫu dựa trên chất lỏng của bà vẫn được sử dụng trong các bệnh viện, phòng thí nghiệm và phòng khám trên khắp thế giới.
Stern là hiện thân thực sự của phụ nữ trong khoa học. Marilyn Winkleby, một nhà dịch tễ học nổi tiếng tại Đại học Stanford, người đã bắt đầu sự nghiệp của mình tại phòng thí nghiệm của Stern, nói về bà với sự kính cẩn và tôn trọng hết mực: “Tôi nhớ bà ấy luôn ở một mình trong văn phòng và miệt mài nghiên cứu. Đó là kí ức rõ nét nhất của tôi về bà ấy. Tôi ngồi ngay bên ngoài phòng thí nghiệm khoa học bận rộn của bà. Nhưng cánh cửa phòng thí nghiệm luôn mở; cánh cửa đó không bao giờ đóng”.