Trong suốt cuộc chiến tranh tại Việt Nam, tên lửa SA-2 đã tàn phá lực lượng không quân của Mỹ. Và cách CIA chống lại thứ vũ khí đáng sợ nhất của Liên Xô là một đội bay cảm tử không người lái.
Ngày 13/2/1966, một máy bay không người lái tầm cao đã thực hiện nhiệm vụ trinh sát tối mật trên vùng trời Việt Nam. Lực lượng phòng không của quân đội Việt Nam đã thu được hình ảnh của máy bay do thám U-2 khi nó xâm nhập không phận của Hà Nội. Ngay lập tức, một tên lửa dẫn đường SA-2 do Liên Xô sản xuất được bắn thẳng vào chiếc U-2, biến nó thành đốm lửa và một đống sắt vụn, nhiệm vụ kết thúc.
Với tất cả những dữ liệu trên, quân đội Việt Nam đã chiến thắng trong cuộc đụng độ nhỏ này, nhưng mọi thứ không đơn giản như vậy. Chiếc "SAM Sniffer" này được tạo ra là để hy sinh. Trong 200 mili giây ngắn ngủi trước khi bị bắn hạ, các thiết bị điện trên chiếc máy bay không người lái này, nếu đúng theo kế hoạch, sẽ ghi lại toàn bộ thông tin chi tiết về hệ thống ra-đa theo dõi, hệ thống dẫn đường, đầu đạn của tên lửa và truyền những thông tin đó đi trước khi quá muộn.
CIA đã lên kế hoạch và chuẩn bị cho nhiệm vụ này trong suốt 3 năm với hy vọng có thể thu thông tin mà những máy bay có người lái không thể có được, chiến dịch có mật danh là United Effort. Trước đó, nhiều máy bay không người lái khác đã từng cố thu thập bí mật của SA-2 nhưng đều không thành công.
Nhưng ở thời điểm đó, có điều gì khác biệt?
Tên lửa dẫn đường đất đối không SA-2. (Ảnh: Tass)
Tên lửa đất đối không dẫn đường bằng ra-đa, hay viết tắt là SAMS, là một mối đe dọa ngày càng lớn đối với lực lượng không quân Mỹ tại chiến trường Việt Nam. Năm 1964, ngay khi Mỹ tham gia vào cuộc chiến, Việt Nam chỉ có 6 ra-đa và đến năm 1967, con số đã lên đến 500 ra-đa.
Mỹ đã cố gắng để tìm ra những bí mật đằng sau tên lửa và hệ thống ra-đa dẫn đường mà quân đội Việt Nam sử dụng. Tuy nhiên chúng được vận hành một cách thông minh và giảm thiểu tối đa khả năng lộ vị trí. Đôi lúc, ra-đa chỉ được bật lên khi có mục tiêu và cũng có lúc quân đội Việt Nam theo dõi mục tiêu bằng một ra-đa thuộc loại khác trước khi kích hoạt ra-đa thứ hai để dẫn đường cho tên lửa vào phút cuối. Khu vực bố trí ra-đa được ngụy trang và thường xuyên di chuyển khiến chúng khó bị tấn công hơn.
Tên lửa dẫn đường SA-2, có tên khác là S-75 Dvina, là một trong những hệ thống phòng không được sử dụng phổ biến nhất trong lịch sử và nó nổi danh với sự kiện bắn hạ chiếc máy bay U-2 của Francis Gary Power năm 1960. Đôi khi nó còn được gọi là "cột điện bay" vì kích thước khổng lồ của mình với chiều dài khoảng 10,6m và đường kính lên đến 1m. SA-2 mang theo đầu đạn phân mảnh nặng 181,4kg và di chuyển với vận tốc Mach 3.
Khoảng khắc chiếc tiêm kích F-105 bị bắn hạ bởi tên lửa đất đối không SA-2. Có thể thấy máy bay đang bốc cháy ở bên phải hình ảnh. (Ảnh: Wikimedia Commons).
Điều khiến tên lửa SA-2 đạt hiệu quả cao là nó không cần phải bắn trúng máy bay, nó chỉ cần đến gần mục tiêu khoảng vài chục mét và bắn ra những mảnh đạn sắc bén. Chính vì mức độ thành công mà Liên Xô rất vui vẻ tài trợ hệ thống tên lửa này cho các nước đồng minh Cuba, Bắc Triều Tiên và Việt Nam.
Tuy nhiên, các kỹ sư của Liên Xô đã để sót một lỗ hổng trong tên lửa này mà CIA nghĩ rằng họ có thể khai thác nó. SA-2 kích hoạt đầu đạn khi đến gần mục tiêu bằng cách sử dụng phản xạ sóng vô tuyến. Nếu CIA tìm ra sóng vô tuyến kích hoạt đầu đạn, các kỹ sư điện tử của Mỹ có thể tạo ra biện pháp đối phó như gây nhiễu hoặc kích nổ đầu đạn ở khoảng cách an toàn.
Các kế hoạch gián điệp đều thất bại. Máy bay bay gần khu bố phòng ra-đa chỉ có thể thu được một số thông tin nhất định. Các cơ quan của Mỹ đã thu được bản dịch của cuốn hướng dẫn vận hành SA-2, tuy nhiên bản dịch quá mơ hồ khiến họ không thể xác định chính xác các thông tin kỹ thuật.
Cuối cùng, chỉ còn một lựa chọn cuối cùng, không quân sẽ có thể thu được tín hiệu khi tham chiến. Nhưng làm sao để có thể bắt được sóng vô tuyến được thiết kế để tiêu diệt máy bay chỉ trong vài trăm mili giây sau đó?
Câu trả lời là: cho máy bay không người lái tham chiến.
Máy bay DC-130 mang theo hai chiếc máy bay không người lái Ryan Model 147SC. (Ảnh: Không quân Mỹ).
CIA có khá nhiều thiết bị điện tử phục vụ công tác tình báo (ELINT) đã được trang bị trên những máy bay như SR-71 Blackbird và U-2. Nhưng không có cái nào trong số đó tương thích với kích thước của máy bay không người lái. Vì vậy, các kỹ sư đã thu nhỏ System X từ 181,4kg xuống còn 79,4kg.
Steve Miller là người làm việc với những chiếc máy bay không người lái trên thuộc Phi đội Trinh sát số 99 tại Việt Nam. Ông cho biết kỹ thuật thu nhỏ thật sự là một bài thực hành về việc loại bỏ toàn bộ những thứ không cần thiết. Các kỹ sư đã đơn giản hóa ăng-ten của máy bay không người lái và loại bỏ toàn bộ các thiết bị phân tích dữ liệu vì nó hoàn toàn không có thời gian để làm việc đó trước khi biến thành một quả cầu lửa.
"Máy bay phiên bản được cải tiến cũng mang theo nhiều bộ thu sóng và ăng-ten để bao phủ những dải tần số rộng hơn", Miller cho biết. "Thứ duy nhất mà máy bay này mang theo là bộ thu sóng đơn tần và mạch điều hòa tín hiệu".
Sau khi hoàn thành, các nhà nghiên cứu tiếp tục lắp ráp lại thiết bị để phù hợp với kích thước của máy bay không người lái với tên System XVII. Sau đó, trang thiết bị sẽ được lắp đặt trên 3 chiếc máy bay không người lái đặc biệt có tên Ryan Model 147D, chúng có mật danh là Long Arm. Những chiếc máy bay này đã trải qua quá trình thử nghiệm nghiêm ngặt để đảm bảo vẫn có thể bay dưới lực cản do các ăng-ten lớn cần cho ELINT.
Vì những chiếc máy bay này chỉ có vé bay một chiều, nên phương pháp phân tích dữ liệu thông thường của CIA sau khi hoàn thành nhiệm vụ không thể áp dụng. Thay vào đó, Long Arm cần phải bắt được tín hiệu và truyền về. Để có thể truyền dữ liệu về chỉ trong 200 mili giây, chúng phải phân tách dữ liệu ra thành nhiều phần thông qua một quá trình gọi là "multiplexing" (ghép kênh). Cách đó vài kilomet, một chiếc máy bay trinh sát điện tử RB-47H Stratojet sẽ có thể nhận dữ liệu.
Việc thực hiện một chuyến bay không người lái với công nghệ ở những năm 1960 không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Miller cho biết các kỹ thuật viên đã phải tập điều khiển máy bay không người lái trong các nhiệm vụ chiến đấu để xử lý sự cố. Hệ thống trong máy bay điều khiển DC-130 cũng khá đơn sơ với những kệ thiết bị chồng chất có tên Line Replacement Units (LRUs), mỗi kệ lại có những chiếc quạt tản nhiệt chạy ở tần số 400Hz với tiếng ồn đinh tai nhức óc.
"Bạn có thể đứng cạnh ai đó trong phòng điều khiển nhưng để có thể nghe được, bạn phải hét vào tai nhau", Miller diễn tả. "Tất cả chúng tôi đều mang tai nghe với chụp tai bọc bên ngoài".
Khi một chiếc quạt tản nhiệt bị kẹt, hiện tượng quá nhiệt có thể xuất hiện ngay lập tức. Miller nhớ lại có khoảng hai lần nghe thấy một chiếc quạt phát ra âm thanh không đều, điều này báo hiệu rằng nó sắp ngừng hoạt động, ông cần phải hành động thật nhanh. Người điều khiển không thể mất kết nối với máy bay quá vài giây, nếu không chế độ tự động lái của máy bay không người lái sẽ hủy nhiệm vụ và bay về khu vực khôi phục đã lập trình sẵn.
Theo quy trình sẽ cần phải xác định thiết bị xảy ra sự cố, tháo hai đai ốc và tám con vít cố định bằng tuốc nơ vít và kéo thiết bị ra rồi cắt dây nguồn bằng kìm cách điện.
"Sau đó tôi chạy về chỗ để tiếp tục đồng bộ MCGS (microwave command guidance system) với máy bay không người lái", Miller cho biết, và ông tiết tục nhiệm vụ mà không gặp phải sự cố nào khác.
DC-130 triển khai máy bay không người lái Ryan Model 147. (Ảnh: Bảo tàng Hàng không & Vũ trụ San Diego).
Tuy có một chiếc Long Arm bị hư hại trong quá trình thử nghiệm, hai chiếc còn lại vẫn được gửi đến Cuba năm 1963, nơi tên lửa SA-2 thường xuyên đe dọa các máy bay của Mỹ. Tuy nhiên, những chiếc máy bay không người lái cỡ nhỏ không đủ để trở thành mục tiêu và hệ thống tên lửa của Cuba hoàn toàn bỏ qua chúng.
Để giúp những chiếc máy bay không người lái giống một mối đe dọa hơn, các kỹ sư đã trang bị Traveling Wave Tube cho chúng để tăng độ phản xạ sóng ra-đa. Nhờ vậy, những chiếc máy bay không người lái hiển thị trên ra-đa sẽ giống với máy bay gián điệp U-2, một mục tiêu xứng đáng được tiêu diệt.
Vào thời điểm chúng sẵn sàng để thực hiện lại nhiệm vụ vào năm 1964, tình hình chính trị tại Cuba đã thay đổi. Vì vậy, hai chiếc 147D quay trở lại châu Á và triển khai tại Bắc Hàn. Trong hai tháng, ra-đa của Bắc Hàn đã "trúng mồi nhử" nhưng cả hai chiếc đều bị bắn hạ mà không thu được bất cứ thông tin giá trị nào.
Miller cho biết nguyên nhân là vì máy bay bay quá thấp và quân đội Bắc Hàn quá thành thạo để phát hiện và theo dõi mục tiêu trong thời gian ngắn khiến cảm biến của máy bay có quá ít thời gian để phản ứng.
Ryan Model 147D. (Ảnh: Bảo tàng Hàng không & Vũ trụ San Diego).
Nếu bay quá thấp là vấn đề khiến cảm biến không kịp phản ứng thì Long Arm chỉ việc bay cao hơn.
CIA đã bố trí 3 máy bay không người lái ELINT mới, là Model 147E với sải cánh tăng từ 4,6m lên 8,2m. Sự thay đổi lớn này giúp 147E có thể bay cao hơn 6.000m, nhờ đó tạo ra nhiều thời gian hơn để phản ứng trước tên lửa đang bay tới, cũng như đưa chúng ra khỏi tầm hoạt động của máy bay đánh chặn MiG-21.
Và lúc này, CIA lựa chọn sẽ thực hiện nhiệm vụ tại Việt Nam.
Ryan Model 147E. (Ảnh: Bảo tàng Hàng không & Vũ trụ San Diego).
Sau chuyến bay đầu tiên tại Việt Nam, những chiếc 147E vẫn sống sót trở về, nhưng các thiết bị ELINT vẫn thất bại. Sau khi phân tích kỹ hơn tại Mỹ, các kỹ sư đã phát hiện ra sự cố quá nhiệt. Các máy bay không người lái nhanh chóng được trang bị hệ thống làm mát bằng amoniac, nhưng Miller cho rằng hệ thống này quá nguy hiểm nên toàn bộ nhân viên mặt đất sẽ nín thở và bỏ chạy nhanh nhất có thể nếu có rò rỉ.
Đầu năm 1966, các chuyến bay SAM Sniffer được nối lại ở Việt Nam và một lần nữa, chiếc 147E đầu tiên bị bắn hạ mà không thu được thông tin, kế hoạch dường như đã thất bại. Nhưng đến ngày 13/2/1966, mọi thứ đã thay đổi.
"Một cú đánh chặn hoàn hảo", Dale Weaver, nhà thầu cao cấp trong các dự án Ryan sau này, cho biết. 147E đã bắt được một tín hiệu hoàn chỉnh của ra-đa dẫn đường và tin hiệu kích hoạt đầu đạn. Thậm chí, máy bay không người lái còn ghi lại thành công lực phát ra từ vụ nổ đã phá hủy nó. Không quân Mỹ đã sử dụng dữ liệu này để phát triển bộ cảnh báo sớm kèm bộ gây nhiễu. Tấm khiên điện tử này giúp bảo vệ bất cứ chiếc máy bay nào có nó khỏi tên lửa SA-2.
Nhưng làm thế nào có thể thử nghiệm thiết bị này mà không gây nguy hiểm cho phi công? Tiếp tục đưa máy bay không người lái vào.
Ryan Model 147F. (Ảnh: Bảo tàng Hàng không & Vũ trụ San Diego).
Các kỹ sư của Ryan đã trang bị thêm một chiếc Model 147 duy nhất được trang bị máy gây nhiễu, đó là 147F. Sự sắp đặt này được biết đến với cái tên Shoehorn và kỹ sư của dự án này là Robert Schwanhausser. Ông cho biết bộ thiết bị điện tử khổng lồ này phải thực sự "vừa khít" với chiếc máy bay không người lái nhỏ bé. Tháng 7/1966, hải quân Mỹ cho những chiếc máy bay này vào không phận Việt Nam để làm mồi nhử tên lửa. Đã có ít nhất 11 tên lửa SA-2 được bắn lên nhưng không quả nào có thể hạ gục những mục tiêu này.
Cuối cùng thì chiếc máy bay không người lái cũng bị bắn hạ bởi quả tên lửa thứ 12.
Shoehorn đã trở thành xương sống của biện pháp đánh chặn AN/APR-26 được trang bị trên nhiều máy bay Mỹ, trong đó có B-52 Stratofortress, F-4 Phantom II và C-130 Hercules. AN/APR-26 sẽ phát cảnh báo nếu máy bay bị ra-đa phát hiện, cho phép phi công có thể thay đổi đường bay và rời khỏi khu vực phòng không. Hệ thống này cũng có thể xác định khi nào máy bay bị ra-đa khóa mục tiêu và báo cho phi công biết có một tên lửa đang bay đến để có thể thực hiện các động tác tránh né tên lửa.
Trong giai đoạn cuối của cuộc tấn công bằng SAM, khi cảm biến khoảng cách gần được kích hoạt, âm thanh cảnh báo sẽ tăng cao độ và chuyển từ kêu liên tục sang hú, báo hiệu cho phi công biết phải làm gì đó hoặc là chết.
"Các yếu tố quan trọng nhất trong thực hiện động tác đổi hướng đột ngột luôn là để dành cú ngoặc hoặc bổ xuống vào những giây cuối cùng trước va chạm với SAM", Miller cho biết. "Tiếng hú là tín hiệu của việc ‘bẻ lái NGAY!'"
Và nếu tên lửa đã đến quá gần mục tiêu, hệ thống phòng thủ cuối cùng sẽ cố gắng đánh bại cảm biến nổ của đầu đạn. Tuy nhiên các phi hành đoàn đều không vui vẻ gì với việc thiết bị kích nổ đầu đạn trong phạm vi sát thương, Miller nói. Phi công thường sẽ tắt thiết bị gây nhiễu tự động và đặt niềm tin và kỹ năng của bản thân.
Với tất cả những lớp phòng thủ đó, tỉ lệ sống sót của máy bay Mỹ trước tên lửa SA-2 dần tăng lên. Năm 1965, một năm trước khi nhiệm vụ của CIA thành công, chỉ với 4 tên lửa SA-2 đã phá hủy được một máy bay Mỹ. Nhưng đến năm 1967, con số cần thiết đã lên đến xấp xỉ 50 tên lửa.
Thành công này đã khiến Eugene Fubini, trợ lý Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, xem nhiệm vụ SAM Sniffer là "đóng góp quan trọng nhất của hoạt động trinh sát điện tử trong 20 năm qua".
Hệ thống tên lửa đất đối không S-400 trong cuộc tập trận chiến lược Caucasus 2016. (Ảnh: Alexei Pavlishak/Getty Images).
Tuy nhiên, đó chưa phải là hồi kết của kế hoạch này. Rút kinh nghiệm từ những thất bại trên chiến trường, các kỹ sư Liên Xô đã nhanh chóng nâng cấp hệ thống vũ khí của mình, chế tạo ra nhiều phiên bản khác của SA-2. Mỗi bản nâng cấp đều yêu cầu lực lượng tình báo Mỹ phải cập nhật thông tin mới. Sau đó, các hệ thống tên lửa tiếp nối được đánh số từ SA-3, SA-4… Và theo NATO, hệ thống tên lửa hiện tại của Nga có tên S-400 là phiên bản SA-21.
Máy bay không người lái cảm tử Model 147D và E là những máy bay trinh sát được cải tiến, vì vậy rất khó để xác định dòng máy bay tương đương với chúng hiện nay là gì. Vào năm ngoái, một tên lửa của Iran đã bắn hạ một máy bay không người lái RQ-4 Global Hawk. Liệu đây có phải là sức mạnh thật sự của Iran hay chỉ là một con mồi do Mỹ thả ra để thu thập thông tin về tên lửa?
Vì khi cần lấy thông tin từ một vụ nổ, cách tốt nhất là cho máy bay không người lái tham chiến.