Phòng ngừa và điều trị bệnh giãn phế quản

  •  
  • 2.173

Giãn phế quản (GPQ) là bệnh hô hấp thường gặp, nhất là trong mùa lạnh. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời sẽ dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm. Đây là sự giãn không hồi phục của cây phế quản. Có thể giãn ở phế quản lớn trong khi phế quản nhỏ vẫn bình thường hoặc giãn ở phế quản nhỏ trong khi phế quản lớn vẫn bình thường.

Phế quản culmen thùy trên trái 
(Ảnh: : chandoanhinhanh)

Những bệnh nhân bị GPQ thường có các triệu chứng điển hình như ho, khạc đờm, ho ra máu. Người bệnh bị ho dai dẳng, khạc đờm mủ hằng ngày khá nhiều, hơi thở có mùi rất hôi. Đờm có 3 lớp: Lớp trên là bọt; Lớp dưới là mủ; Lớp đáy là nhày.

Có thể ho ra máu (từ ít đến nhiều). Riêng GPQ ở trẻ em, ít gặp các trường hợp ho ra máu. Triệu chứng đau ngực có thể là dấu hiệu sớm của nhiễm khuẩn phế quản ở vùng GPQ. Khi bị GPQ, bệnh nhân còn bị viêm phổi tái diễn ở vùng GPQ.

Mặt khác, 1/3 số trường hợp mắc phải căn bệnh này còn có ngón tay hình dùi trống. Người bệnh sút cân, thiếu máu, yếu sức, 80% có triệu trứng đường hô hấp trên kèm theo như (viêm mũi, xoang chảy mủ). Nếu GPQ lan rộng cả 2 bên rất có thể người bị tím tái, khó thở. Ở vùng phổi bị GPQ, có viêm phổi tái diễn nhiều lần, hằng năm về mùa lạnh.

Khi nghe phổi, thường xuyên có ran khu trú ở vùng có GPQ, thường là 2 đáy thổi. Nếu có tắc nghẽn phế quản kèm theo thì nghe có ran ngáy lan tỏa cả hai phổi hoặc có tiếng thở rít. Khi có ran ẩm hoặc ran nổ khu trú thường xuyên ở đáy phổi trong khi Xquang phổi lại bình thường, thì phải nghĩ đến GPQ.

GPQ hậu nhiễm khuẩn thường ở thùy trên (lao phổi, áp-xe phổi). Biến chứng thường gặp của GPQ là viêm phổi, áp-xe phổi, tâm phế mạn...

Một vài triệu chứng ít gặp là:

- Viêm mạch có ban xuất huyết ở ngoài da.

- GPQ có thể kèm theo một vài bệnh sau: viêm xoang, viêm khớp dạng thấp, viêm đại tràng mạn tính, vô sinh (vô sinh là một triệu chứng của bệnh xơ hóa kén, hội chứng rối loạn vận động rung mao tiên phát), hội chứng móng tay vàng, bệnh tổ chức liên kết (luput ban đỏ hệ thống), viêm mạch với các xuất huyết ở da và tăng các phức hợp miễn dịch lưu hành v.v...

Nguyên nhân nào gây nên tình trạng GPQ?

Dị tật bẩm sinh ở cấu trúc phế quản: GPQ lan tỏa cộng với viêm xoang cộng với phủ tạng đảo lộn (vị trí của tim chuyển sang bên phải) do rối loạn hoạt động của lông tuyến phế quản.

Khuyết tật hoặc không có sụn ở phế quản nên phế quản phình ra khi hít vào, xẹp xuống khi thở ra. Khi phế quản phì đại do khuyết tật cấu trúc tổ chức liên kết ở thành phế quản kèm theo GPQ.

Do viêm hoại tử ở thành phế quản: GPQ sau nhiễm khuẩn phổi như lao, viêm phổi vi khuẩn, virut, sởi, ho gà, do dịch dạ dày hoặc máu bị hít xuống phổi, hít thở khói hơi độc (khí ammoniac), do nhiễm khuẩn phế quản tái diễn.

Do bệnh xơ hóa kén: chiếm tỷ lệ 50% các trường hợp GPQ, là nguyên nhân thường gặp nhất ở châu Âu và Bắc Mỹ.

Do phế quản lớn bị tắc nghẽn: lao hạch phế quản, hoặc dị vật rơi vào phế quản ở trẻ em, u phế quản hoặc sẹo xơ gây chít hẹp phế quản sau khi bị giập vỡ ở phế quản lớn do chấn thương lồng ngực. Dưới chỗ phế quản chít hẹp, áp lực nội phế quản tăng lên và dịch tiết ùn tắc gây nên nhiễm khuẩn mạn tính tại chỗ rồi phát triển thành GPQ.

Do tổn thương xơ hoặc u hạt co kéo thành phế quản: lao phổi xơ, lao xơ hang, áp-xe phổi mạn tính, bệnh phế nang viêm xơ hóa. GPQ ở lao hậu tiên phát có thể phát triển theo 2 cơ chế sau:

- Phổ biến nhất do nhu mô phổi bị phá hủy và xơ hóa dẫn đến co kéo và GPQ không hồi phục.

- Chít hẹp phế quản do xơ sẹo sau lao nội phế quản cục bộ. Vì đa số trường hợp lao hậu tiên phát, tổn thương lao ở các phân thùy đỉnh và phân thùy sau của thùy trên nên GPQ thường gặp ở các vị trí này là vị trí dẫn lưu phế quản tốt nên các triệu chứng thường nghèo nàn. Thể ho ra máu thường gặp ở thể GPQ này.

Rối loạn thanh lọc nhày nhung mao: GPQ có thể phát triển trong rối loạn vận động nhung mao thứ phát của hen phế quản. Các trường hợp này vi khuẩn phát triển ở đường hô hấp dưới.

Rối loạn cơ chế bảo vệ phổi:

Suy giảm miễn dịch dịch thể bẩm sinh hoặc mắc phải như giảm gamma-glôbulin máu, giảm chọn lọc lgA, lgM, lgG.

Suy giảm miễn dịch mắc phải (thứ phát): do dùng thuốc gây độc tế bào, nhiễm HIV/AIDS, đau tủy, bệnh bạch cầu mạn tính.

Giãn phế quản vô căn: người ta cho rằng GPQ vô căn có thể do rối loạn thanh lọc phổi phế quản, nhưng bị bỏ qua, thường gặp ở người lớn ở thùy dưới.

Về điều trị: Phải loại trừ mọi kích thích phế quản: thuốc lá, thuốc lào; Tìm và điều trị các ổ nhiễm khuẩn răng, tai mũi họng; Tiêm vacxin phòng cúm, chống phế cầu.

Phải phục hồi chức năng hô hấp: Cần làm thường xuyên với tập thở, ho có điều khiển, vỗ ngực cho đờm dễ dàng dẫn lưu ra ngoài, nằm đầu thấp với các tư thế khác nhau tùy theo vùng phế quản giãn nhiều lần trong ngày để dẫn lưu theo tư thế; Phun hít thuốc giãn nở phế quản kích thích b2 (salbutamol, terbutaline...). Khi bệnh nhân sốt, khạc nhiều đờm, đờm mủ, biến chứng nhiễm khuẩn nhu mô, màng phổi dùng các kháng sinh theo chỉ định của thầy thuốc.

Nội soi phế quản để chẩn đoán vị trí chảy máu, giải phóng đờm dịch gây ùn tắc phế quản, giải phóng tổn thương gây tắc nghẽn phế quản. Chỉ định phẫu thuật khi GPQ cục bộ một bên phổi, khi nung mủ nhiều hoặc ho máu nặng, điều trị nội khoa thất bại. Trên thế giới, người ta đang bắt đầu áp dụng phẫu thuật ghép phổi để điều trị GPQ.

Để phòng bệnh: Cần giữ gìn vệ sinh sạch sẽ hệ hô hấp. Nếu trẻ bị nhiễm khuẩn phế quản cần điều trị triệt để. Đối với người trưởng thành cũng phải luôn vệ sinh răng miệng, mũi sạch sẽ. Nếu bị viêm mũi, xoang cũng cần điều trị dứt điểm, tránh biến chứng sang GPQ.

Theo Sức Khỏe & Đời Sống, TTO
  • 2.173