Bài viết dưới đây là những kiến thức cơ bản nhất về bệnh sốt chuột cắn - hay còn gọi là bệnh Sodoku, mời các bạn cùng xem.
Sốt do chuột cắn là một bệnh khá hiếm gặp, được biết đến bởi sự xuất hiện đặc trưng tùy theo từng vùng trên thế giới. Mặc dù hầu hết các bệnh nhân đều có biểu hiện các triệu chứng nhẹ và đáp ứng tốt với các kháng sinh thông thường, nhưng nó có thể dẫn đến những biến chứng nặng với tỉ lệ tử vong cao tới 13% nếu không được điều trị. Nhiều trường hợp có bệnh sử không liên quan đến chuột cắn và được biểu hiện bằng các triệu chứng sốt, nổi ban và đau khớp thường khó chẩn đoán và nhầm lẫn với những bệnh khác. Việc nhấn mạnh các tiêu chuẩn về dịch tễ học và các biểu hiện lâm sàng giúp hỗ trợ cho chẩn đoán và điều trị bệnh.
Chỉ vì vết chuột cắn, bệnh nhân này đã phải nằm viện 4 ngày mới dứt sốt. (Ảnh: Tú Anh (Dân trí)).
Sốt chuột cắn là bệnh do động vật truyền lây sang người thông qua các vết cắn hoặc vết cào của động vật thuộc bộ gặm nhấm đặc biệt là chuột, hoặc một số loài thú nuôi (như chó, mèo…). Theo căn nguyên gây bệnh và lâm sàng chúng ta phân biệt:
Sodoku là từ ghép tiếng Nhật của hai từ So là chuột, doku là nhiễm độc. Từ máu những bệnh nhân mắc bệnh người ta đã phân lập được xoắn khuẩn, được đặt tên là Spirillum minus vào năm 1924. Vi khuẩn là xoắn khuẩn Gram âm ngắn với 2 hoặc 3 vòng xoắn và không mọc được trong môi trường nuôi cấy nhân tạo.
Spirillum minus thường gây bệnh sốt chuột cắn ở châu Á và một số ca bệnh rải rác được báo cáo ở châu Phi, châu Úc, châu Âu và châu Mỹ. Spirillum minus được tìm thấy ở cơ lưỡi của chuột nhắt, chuột nhà, chó, mèo khỏe mạnh. Căn bệnh này được lây truyền qua người một cách ngẫu nhiên, trực tiếp thông qua vết cắn hoặc vết cào, hoặc một cách gián tiếp thông qua tiếp xúc hoặc ăn những thức ăn bị nhiễm nước tiểu của chuột có nhiễm vi khuẩn. 25% số chuột được xét nghiệm có mang S. minus.
Thời kỳ ủ bệnh của bệnh Sodoku thường từ 5 ngày đến 4 tuần, khởi phát đột ngột với triệu chứng sốt cao (39-40 độ C), rét run và được đặc trưng bởi triệu chứng sốt gián đoạn từng cơn. Những cơn sốt riêng rẽ tái đi tái lại được ngăn cách bởi những khoảng thời gian không sốt thường thấy ở bệnh sốt chuột cắn do xoắn khuẩn spirillum.
Sự tái phát cơn sốt có thể xuất hiện vài lần qua 1 đến 3 tháng. Đồng thời biểu hiện các hội chứng về da như ban sẩn ngứa, ban hoạt tử, có xu hướng nối liền với nhau, tập trung ở da đầu, mặt và thân trên. Ở vùng bị cắn, các thương tổn ở da có thể tự khỏi, nhưng trong hầu hết các trường hợp nó có thể trở thành một vùng sưng tấy, tím đỏ và hoại tử.
Suốt thời kỳ mắc bệnh bệnh nhân có thể biểu hiện đau cơ khớp, có thể phát triển thành viêm khớp. Ở một số bệnh nhân có thể biểu hiện các triệu chứng chứng thần kinh: đau đầu, ảo giác, tình trạng mê sảng dẫn đến hôn mê. Các biến chứng có thể xảy ra như: viêm tim nội mạc, viêm màng não, nhồi máu, viêm gan, viêm màng phổi, viêm mào tinh hoàn, thiếu máu. Nếu không được điều trị, tình trạng sốt sẽ kéo dài dai dẳng 1-2 tháng là nguyên nhân gây tử vong với tỉ lệ 6-10%.
Sốt chuột cắn là bệnh do động vật truyền lây sang người.
Sốt chuột cắn do Spirillum thường được chẩn đoán do phân lập được vi khuẩn trong máu, hạch lympho, vết cắn và các tổn thương da. Spirillum minus có thể phát hiện qua kính hiển vi nền đen hoặc ở pha tương phản, hoặc nhuộm Giemsa, nhuộm Wright hoặc nhuộm bạc. Vi khuẩn Spirillum minus ngắn, hình xoắn, Gram âm (rộng 0.2-0.5µm và dài 3-5µm), có lông roi ở hai đầu. Hiện nay vẫn chưa thành công trong việc nuôi cấy vi khuẩn trong môi trường nhân tạo. Nếu không phát hiện được vi khuẩn, máu hoặc dịch rỉ ở vết thương có thể tiêm dịch vào chuột để chẩn đoán bằng cách phân lập S. minus.
Bệnh sốt chuột cắn do Streptobacillus moniliformis được biết đến dưới tên gọi sốt Haverhill, sốt Haverhill được mô tả tại Ấn Độ 2000 năm trước và nó phổ biến hơn bệnh Sodoku. Vào năm 1926, Streptobacillus moniliformis được xác định là nguyên nhân gây bệnh tại thị trấn Haverhill bang Massachusetts.
Streptobacillus moniliformis là trực khuẩn Gram âm, ưa khí, không di động, không có vỏ, là trực khuẩn đa hình thể. Chúng thường có hình cầu, hình oval, hình thoi, hình gậy, trong một số trường hợp, vi khuẩn cuộn thành hình khối. Chúng được tìm thấy ở mũi hầu của chuột. Bệnh xuất hiện rải rác ở một số gia đình nghèo.
Sốt Haverhill phổ biến ở mọi nơi trên thế giới, thường xảy ra ở Mỹ và các nước châu Âu. Sự lây truyền cho người xảy ra trực tiếp thông qua vết cắn hoặc cào của chuột hoặc xảy ra gián tiếp thông qua việc ăn các thức ăn chưa được nấu chin bị nhiễm hoặc uống nước bị nhiễm nước tiểu của chuột bị bệnh, hoặc có thể lây gián tiếp thông qua sự tiếp xúc giữa bàn tay không được bảo vệ với chuột và các con vật bị ốm trong phòng thí nghiệm. Streptobacillus moniliformis xâm nhập vào người qua da lành.
Thời gian ủ bệnh từ 3-10 ngày. Biểu hiện bệnh đột ngột với hội chứng nhiễm trùng với triệu chứng sốt cao (39-40 độ C), rét run, đau đầu. Khi Streptobacillus moniliformis xâm nhập qua đường tiêu hóa, bệnh nhân sẽ có các triệu chứng ở đường tiêu hóa như nôn hoặc buồn nôn. Đau cơ và khớp có thể xuất hiện với đặc điểm đau di chuyển từ khớp này sang khớp khác.
Trong suốt quá trình mắc bệnh, hội chứng nhiễm trùng xuất hiện dai dẳng, gián đoạn. Triệu chứng về da có thể biểu hiện các ban xuất huyết xuất hiện ở lòng bàn tay, chân, mũi. Một nửa số bệnh nhân có biểu hiện thấp khớp hoặc nhiễm trùng các khớp một cách không đối xứng, tập trung ở các khớp lớn. Người ta mô tả các khớp bị nhiễm trung do Streptobacillus moniliformis rời rạc, không liên quan tới nhau. Biểu hiện sốt sẽ lui dần sau 3-5 ngày thậm chí khi không điều trị kháng sinh và các khớp viêm sẽ biến mất trong vòng từ 10 đến 14 ngày.
Các biến chứng có thể xảy ra: viêm nội tâm mạc, nhồi máu cơ tim, viêm màng ngoài tim, viêm phổi, viêm màng não, thiếu máu.
Ở người, sốt chuột cắn do Streptobacillus moniliformis được chẩn đoán qua việc cấy máu, dịch khớp, dịch rỉ từ vết thương. Phụ thuộc vào môi trường nuôi cấy, vi khuẩn có thể mọc đơn độc hoặc thành chuỗi.
Streptobacillus moniliformis phát triển khó và phải được nuôi cấy trong môi trường 20% huyết tương, máu hoặc dịch cổ trướng. Phòng thí nghiệm phải được thông báo chẩn đoán nghi ngờ, vi khuẩn không phát triển tốt trong các môi trường thông thường. Phương pháp gây nhiễm cho động vật thuộc họ gặm nhấm cũng được sử dụng để chẩn đoán.Chẩn đoán bằng huyết thanh người không có nhiều ý nghĩa. Phản ứng PCR không được sử dụng để chẩn đoán ở người vì giá thành quá đắt.
Tỉ lệ mắc bệnh hơn 25% số bệnh nhân không được điều trị. Việc điều trị bệnh sốt chuột cắn kết hợp với việc chăm sóc vết cắn của chuột. Việc chăm sóc vết thương bao gồm rửa sạch vết thương và tiêm phòng uốn ván. Chuột và các động vật thuộc họ gặm nhấm không bị nhiễm virus dại và chưa có báo cáo về việc lây truyền virus dại cho người từ nhóm động vật này.
Việc chăm sóc vết thương bao gồm rửa sạch vết thương và tiêm phòng uốn ván.
Trong nghiên cứu invitro, Streptobacillus moniliformis nhạy cảm với penicillin, ampicillin, azithromycin và doxycycline, và kháng với các loại kháng sinh polymyxin B, gentamycin, ciprofloxacin, levofloxacin. Erythromycin nhạy cảm trong nghiên cứu nhưng khi áp dụng vào lâm sàng đã bị thất bại.
Người lớn
Trẻ em
Phòng bệnh
Diễn biến lâm sàng của bệnh sốt chuột cắn nhanh và nguy hiểm. Việc phòng ngừa bệnh phụ thuộc vào việc nhận thức các nguy cơ và triệu chứng có thể có của bệnh của những người có phơi nhiễm với chuột.
Liều uống penicillin trong 3 ngày (2g/ngày với người lớn; 25.000 đến 50.000 đơn vị/kg/ngày với trẻ em) được khuyến cáo khi bị chuột cắn, mặc dù tính hiệu quả của việc dự phòng bằng kháng sinh chưa được kiểm chứng.
Việc ngăn ngừa việc mắc bệnh bao gồm việc tiêu diệt chuột ở thành phố, hủy bỏ sữa chưa được tiệt trùng và nguồn nước nhiễm khuẩn tiềm tàng, sử dụng găng tay khi tiếp xúc với động vật và khi lau chùi chuồng của chúng.