- Thời điểm xây dựng: 1563 - 1584
- Địa điểm: Tây Bắc Madrid, Tây Ban Nha
Đan viện thánh St Lawrence vùng Escorial của nhà vua được thi sĩ siêu hình John Donne đề cập trong bài thơ "Funeral Elegie" của ông sáng tác năm 1611 như một hiện thân của quy mô bao la, luôn đủ sức thu hút tạo ấn ấn tượng cho khách tham quan bằng chính độ lớn của mình. Thoạt nhìn, người ta phải kinh ngạc khi dinh thự đồ sộ này đã được hoạch định, tiến hành và hoàn tất trong cả một đời người của người sáng lập, vua Philip II của Tây Ban Nha.
Chúng ta may mắn sau khi có được mô tả đương đại thật toàn diện về đan viện Escorial do giáo sĩ uyên thâm Jose Siguenza xuất bản vào năm 1605, người sau này trở thành tu viện trưởng của đan viện.
Bản vẽ sơ đồ đan viên Escorial (Ảnh: unav)
Khái niệm
Dự định ban đầu của vua Philip II là phải xây dựng một lăng mộ có giá trị tương xứng dành cho thân phụ, hoàng đế Charles V và dành cho chính ông cùng con cháu. Lăng mộ cần phải đặt trong một đan viện to lớn sao cho các lễ cầu nguyện nối tiếp nhau có thể nguyện cầu cho linh hồn của nhà vua quá cố được siêu thoát. Ý định dành để thờ phụng St Lawrence, một thánh tử đạo người Tây Ban Nha được Philip tôn kính từ thời thơ ấu, dự định như một lời tạ ơn đối với chiến thắng của Tây Ban Nha với quan Pháp ở St Quentin năm 1557 vào ngày Lễ thánh Lawrence, mùng 10 tháng 8. Nhưng thường câu truyện lặp đi lặp lại cho rằng sơ đồ mặt bằng của đan viện Escorial được lấy cảm hứng từ chiếc giường sắt hình thánh St Lawrence tử đạo chỉ là truyện hoang đường.
Quan tài bằng đá hoa cương (Ảnh: lunapark) |
Mục đích khác để chọn không gian này là có sẵn cơ sở giáo dục và y tế. Hội đồng Trent (1545 - 1563) đề nghị mỗi cơ sở tôn giáo lớn nên thành lập một trường đại học, dạy học cho thường dân lẫn đào tạo giáo sĩ Cơ Đốc. Những cơ sở này nằm ở phần Tây Bắc của công trình, trong khi góc Tây Nam là những căn phòng dành cho du khách, bệnh xá và tịnh dưỡng, cùng với một phòng bào chế có khả năng cung cấp thuốc rất đáng kể.
Thiết kế và thi công
Kiến trúc sư được vua Philip II chọn là Juan Bautista Alfonsis de Toledo, vì đã có 11 năm làm kiến trúc sư kiêm kỹ sư trong cung phục vụ tổng trấn thành Naples, và trước đó là kiến trúc sư thứ 2 sau Michelangelo tham gia thánh đường St Peter ở Rome. Sơ đồ sau cùng được nhà vua chấp thuận vào năm 1562, xác định phải thi công theo hệ thống hình học Vitruvius gồm các hình tam giác đều nội tiếp trong một hình tròn. Nghiên cứu chi tiết sơ đồ mặt bằng có vẻ biểu thị việc hình thành nhiều sự phân chia bên trong, Juan Bautista sử dụng một module bằng 1/6 của 100, khoảng 5m.
Sơ đồ phác họa bao gồm một khối xây hình chữ nhật chính cạnh Bắc Nam dài 204m nhân đôi với cạnh Đông Tây dài 160m, với phần nhô ra về hướng Đông (các tư thất của nhà vua) và Tây Nam (hành lang tịnh dưỡng). Bao quanh khối xây và gắn liền với thiết kế là các dải đất bằng tạo bậc làm lối đi hay công viên trộng khoảng 30m. Thiết kế ban đầu của Juan Bautista hình dung 10 tháp quanh chu vi của khối, nhưng con số này giảm còn lại 6, 1 tháp đặt ở mỗi góc và 2 tháp đặt ở giữa khi có thay đổi trong thiết kế vào năm 1563 và 1564.
Escorial nhìn từ trên cao qua bản khắc gỗ thể hiện khu phức hợp đa chức năng nhìn từ hướng Tây.
Sơ đồ mặt bằng của Juan Bautista năm 1562 vẫn giữ nguyên không đổi nhưng ông 2 lần phải thay đổi cao trình. Lần thứ nhất, vào năm 1563, ngay sau khi khởi công xây dựng, thiết kế nhà thờ phải sửa đổi để đáp ứng đề nghị triệt để của một kiến trúc sư tư vấn người Ý - Francesco Paciotto of Urbino. Lần thứ 2 vào năm 1564, độ cao của một nửa công trình phía Tây phải nâng lên thêm 1 tầng nữa để tạo ra điều kiện ăn ở bổ sung khi cần khi Philip II nhất trí số giáo sĩ gia tăng từ 50 lên 100.
Số liệu thực tế:
- Khối xây chính: 204 x 160m
- Dải đất bằng tạo bậc: rộng 30m (60m hướng Tây)
- Số tháp: 6
Cái chết không phải lúc của Juan Bautista năm 1567 khiến mọi người bàng hoàng. Nhưng nền móng đã làm xong, nhiều vách tường xây dở dang. Kiến trúc sư cũng để lại một mô hình bằng gỗ và đầy đủ bản vẽ đã được nhà vua đồng ý. Juan de Herrera (1530 - 1597) tiếp tục một số công đoạn khác. Ông là một binh sĩ chính quy, trong thời gian tại ngũ năm 1564 phụ với Jaun Bautista trong tư cách nhân viên vẽ sơ đồ thiết kế. Sau khi Juan Bautista mất, Herrera vẫn giữ quyền quản lý phòng thiết kế, do đó có thể có một số ảnh hưởng nhất định trong thi công.
Toàn cảnh đan viện Escorial nhìn từ phía Tây Nam, xa xa cách hồ nước vuông là những vòm xây kín tường được thiết kế tương phản với phần tường phía trên nó, bức tường có đến 259 cửa sổ xuyên qua (Ảnh: umwelt-verkehr) |
Ở các điểm khác nhau trong 21 năm thi công, nhiều toán thợ thủ công và lao động được đan viện thuê trực tiếp, theo chế độ khoán, trong khi ở các thời điểm khác, tổ chức đấu thầu cho các công đoạn cụ thể, cách nào cũng có ý kiến đồng tình và chỉ trích.
Tất cả tường bên ngoài đã xây xong, ốp mặt bằng đá cắt - loại đá hoa cương Guadarrama màu xám ở địa phương làm cho công trình hài hòa với bố cục. Vận chuyển đá từ mỏ đến công trường bằng xe bò rất hiệu quả, mỗi xe đo một cặp bò đực kéo - tổng cộng cần đến 200 chuyến mới vận chuyển xong, một giáo sĩ cấp cao được phân công chăm sóc y tế cho họ.
Phong cách Escorial, do chính nhà vua quyết định, là phong cách của thời kỳ Phục Hưng trong giai đoạn sau này, kết hợp với nhiều kiến trúc sư ở Ý như Giorgio Vasari và Giacamo Barozzi da Vignola. Những người cùng thời như Siguenza xem phong cách như phong cách Vitruvius và chắc chắn trong công trình có vô số điểm liên quan tới nguyên tắc trong giáo trình kiến trúc sư La Mã cổ đại. Sự ganh đua xây dựng theo phong cách cổ điển là tham vọng chính của các nhà tài trợ và kiến trúc sư trong thời kỳ Phục Hưng, đầu năm 1578, đan viện Escorial đang được đề cập octavo molagro hay Kỳ quan thứ 8 của thế giới, hơn hẳn 7 kỳ quan khác.
Mặt tiền bên ngoài của khối xây chính đã bị chỉ trích vì vẻ xấu xí nhưng điều này không thừa nhận dự định của kiến trúc sư khi tạo ra sự tương phản giữa tường thông thường và không gian kế cận - vườn treo có trồng cây ăn quả và công viên bên dưới, nằm ở hướng Nam và Đông, ở hướng Tây và Bắc, các dải đất bằng tạo bậc bằng đá rộng lớn kéo dài sự nối khớp trục áp tường ở mặt tiền thành một chiều thứ 3 bằng hoa văn lát nền. Tương tự, cao trình thông thường của sân tương phản và vì thế làm nổi bật nội thất trang trí phong phú của công trình.
Cung thánh và bàn thờ chính của nhà thờ Escorial nhìn từ chỗ đường giao nhau. (Ảnh: lunapark)
Trang trí nội thất
Philip II rất quan tâm đến trang trí hình vẽ và tác phẩm điêu khắc phần nội thất của đan viện Escorial cũng như quan tâm ở phần kiến trúc. Bích họa có các chủ đề bao quát do Luca Cambiaso và Pelliegrino Pellegrini (Tibaldi) vẽ trong nhà thờ, đan viện và thư viện chính. Rất nhiều chi tiết trên bàn thờ đều đặt hàng ở các họa sĩ Ý và Tây Ban Nha, trong đó hình thánh tử dạo St Lawrence của Titian và St Maurice của El Greco, tác phẩm của El Greco bị nhà vua loại bỏ vì không như tác phẩm Nararrete người Tây Ban Nha, chi tiết bàn thờ của El Greco không truyền cảm hứng mộ đạo. Những người kế vị Philip II tiếp tục thông lệ miêu tả bằng trang vẽ của ông đối với đan viện, thể hiện trong các phòng họp của tu sĩ, gồm các tác phẩm của Tintoretto, Rubens và Velázquez.
Mỗi chi tiết thiết kế và trang trí đan viện Escorial đều phải tham khảo ý kiến và chờ quyết định của Philip II. Thậm chí chính ông cũng tham gia bàn bạc nên trồng loại cây nào ở vườn treo trước thời gian sao cho số cây do ông chọn đều phát triển xanh tốt khi công trình hoàn tất. Xây dựng là một trong những quan tâm chính của ông ít nhất từ khi ông 14 tuổi lần đầu tiên bắt đầu đọc giáo trình về kiến trúc. Thậm chí người ta mô tả lẽ ra ông phải làm kiến trúc sư mới phải. Trong số các danh hiệu dành cho ông có danh hiệu vua Jerusalem, vì thế bản thân ông cũng được xem là người kế vị 6 ông vua xây dựng Do Thái, với những pho tượng khổng lồ nhìn xuống sân có lối vào phía trước, được gọi là Patio de los Reyes.
Toàn cảnh đan viện Escorial (Ảnh: faculty-staff)