Dấu hiệu và cách chăm sóc bệnh nhân bị thủy đậu

Bệnh thủy đậu là một bệnh truyền nhiễm, do virus Varicella Zoster gây ra và thường bùng phát thành dịch vào mùa xuân. Người bị thủy đậu nếu không được chăm sóc và chữa trị đúng cách có thể bị biến chứng nguy hiểm.

Bệnh thủy đậu có lây không?

Bệnh thủy đậu do một loại siêu vi mang tên Varicella Zoster Virus (VZV) gây nên, thủy đậu là một bệnh rất dễ lây truyền.

  • Virus gây bệnh thủy đậu lây chủ yếu qua đường hô hấp (hoặc không khí), người lành dễ bị nhiễm bệnh nếu hít phải những giọt nước bọt bắn ra khi bệnh nhân thủy đậu ho, hắt hơi hoặc nhảy mũi… nhất là trẻ em.
  • Một số cách lây nhiễm khác có thể xảy ra nếu chúng ta không cẩn thận khi tiếp xúc với bệnh nhân thủy đậu như: bệnh có thể lây từ bóng nước khi bị vỡ ra, lây từ vùng da bị tổn thương hoặc lở loét từ người mắc bệnh. Đặc biệt, phụ nữ mang thai không may bị nhiễm bệnh sẽ rất dễ lây cho thai nhi thông qua nhau thai.

Triệu chứng bệnh thủy đậu

  • Khi khởi phát, người bệnh có thể có biểu hiện sốt, đau đầu, đau cơ, một số trường hợp nhất là trẻ em có thể không có triệu chứng báo động…

Khi bị thủy đậu, cơ thể người bệnh sẽ xuất hiện những "nốt rạ".

Khi bị thủy đậu, cơ thể người bệnh sẽ xuất hiện những “nốt rạ”. Đây là những nốt tròn nhỏ xuất hiện nhanh trong vòng 12 - 24 giờ, các nốt này sẽ tiến triển thành những mụn nước, bóng nước.

  • Sau đó cơ thể người bệnh sẽ xuất hiện những “nốt rạ”. Đây là những nốt tròn nhỏ xuất hiện nhanh trong vòng 12 - 24 giờ, các nốt này sẽ tiến triển thành những mụn nước, bóng nước. Nốt rạ có thể mọc khắp toàn thân hay mọc rải rác trên cơ thể, số lượng trung bình khoảng 100 - 500 nốt. Trong trường hợp bình thường những mụn nước này khô đi, trở thành vảy và tự khỏi hoàn toàn trong 4 - 5 ngày. Ở trẻ em, thủy đậu thường kéo dài khoảng 5 - 10 ngày dẫn đến việc phải nghỉ học hoặc nghỉ đến nơi giữ trẻ.

Biến chứng của bệnh thủy đậu

Thông thường, thủy đậu là bệnh lành tính. Nhưng bệnh cũng có thể gây biến chứng nguy hiểm như: viêm màng não, xuất huyết, nhiễm trùng huyết, nhiễm trùng nốt rạ, viêm mô tế bào, viêm gan… Một số trường hợp có thể gây tử vong nếu người bệnh không được điều trị kịp thời. Người mẹ mắc bệnh thủy đậu khi đang mang thai có thể sinh con bị dị tật bẩm sinh sau này.

Chứng viêm phổi do thủy đậu, ít khi xảy ra hơn, nhưng rất nặng và rất khó trị. Chứng viêm não do thủy đậu cũng vẫn xảy ra, không hiếm: sau thủy đậu trẻ bỗng trở nên vật vã, quờ quạng chân tay, nhiều khi kèm theo co giật (làm kinh), hôn mê. Những trường hợp này có thể gây chết người nhanh chóng, và một số trẻ tuy qua khỏi được vẫn mang di chứng thần kinh lâu dài: bị điếc, bị khờ, bị động kinh v.v...

Chăm sóc người bệnh bị thủy đậu

  • Vì là bệnh lây lan nên khi trẻ bị thủy đậu, việc đầu tiên là các bậc cha mẹ nên cách ly trẻ tại nhà cho tới khi khỏi hẳn. Bổ sung thêm vitamin C, nhỏ mũi 2 lần/ngày cho trẻ. Mặc quần áo vải mềm, thấm hút mồ hôi và đặc biệt chú ý tới việc đảm bảo vệ sinh da cho trẻ để tránh xảy ra biến chứng. Giữ bàn tay cho trẻ thật sạch.

Khi cần tiếp xúc người bệnh thủy đậu thì phải đeo khẩu trang.

Khi cần tiếp xúc người bệnh thủy đậu thì phải đeo khẩu trang. Sau khi tiếp xúc phải rửa tay ngay bằng xà phòng. Đặc biệt những phụ nữ đang mang thai cần tuyệt đối tránh tiếp xúc với người bệnh.

Lưu ý: Tránh làm vỡ các nốt thuỷ đậu vì dễ gây bội nhiễm và có thể tạo thành sẹo tồn tại lâu dài.

  • Nằm trong phòng riêng, thoáng khí, có ánh sáng mặt trời, thời gian cách ly là khoảng 7 đến 10 ngày từ lúc bắt đầu phát hiện bệnh (phát ban) cho đến khi các nốt phỏng nước khô vảy hoàn toàn (người lớn phải nghỉ làm, học sinh phải nghỉ học).
  • Sử dụng các vật dụng sinh hoạt cá nhân riêng: khăn mặt, ly, chén, muỗng, đũa.
  • Vệ sinh mũi họng hàng ngày bằng dung dịch nước muối sinh lý 90/00.
  • Thay quần áo và tắm rửa hàng ngày bằng nước ấm trong phòng tắm.
  • Nên mặc quần áo rộng, nhẹ, mỏng.

Đối với trẻ em

  • Nên cắt móng tay cho trẻ, giữ móng tay trẻ sạch hoặc có thể dùng bao tay vải để bọc tay trẻ nhằm tránh biến chứng nhiễm trùng da thứ phát do trẻ gãi gây trầy xước các nốt phỏng nước.
  • Ăn các thức ăn mềm, lỏng, dễ tiêu, uống nhiều nước, nhất là nước hoa quả.
  • Dùng dung dịch xanh Milian (xanh Methylene) để chấm lên các nốt phỏng nước đã vỡ.
  • Trường hợp sốt cao, có thể dùng các thuốc hạ sốt giảm đau thông thường nhưng phải theo hướng dẫn của thầy thuốc, có thể dùng kháng sinh trong trường hợp nốt rạ bị nhiễm trùng: nốt rạ có mủ, tấy đỏ vùng da xung quanh... Tuyệt đối không được dùng thuốc Aspirin để hạ sốt.
  • Nếu bệnh nhân cảm thấy: Khó chịu, lừ đừ, mệt mỏi, co giật, hôn mê hoặc có xuất huyết trên nốt rạ nên đưa đến ngay các cơ sở y tế để được theo dõi và điều trị.


Thủy đậu là một bệnh lành tính nhưng cần được phát hiện sớm và chăm sóc chu đáo nếu không biến chứng sẽ rất nguy hiểm.

Đối với người thân trong gia đình:

  • Hạn chế tiếp xúc với người bệnh: Khi cần tiếp xúc thì phải đeo khẩu trang. Sau khi tiếp xúc phải rửa tay ngay bằng xà phòng. Đặc biệt những phụ nữ đang mang thai cần tuyệt đối tránh tiếp xúc với người bệnh.
  • Vệ sinh phòng ở của người bệnh: Lau sàn phòng, bàn ghế, tủ giường, đồ chơi của người bệnh hàng ngày bằng nước Javel, hoặc dung dịch Cloramin B, sau đó rửa lại bằng nước sạch. Đối với những đồ vật nhỏ có thể đem phơi nắng.

Các bác sĩ khuyến cáo, thủy đậu là một bệnh lành tính nhưng cần được phát hiện sớm và chăm sóc chu đáo, nếu không được điều trị kịp thời và đúng cách sẽ gây nhiều biến chứng nguy hiểm như viêm phổi, viêm não và màng não. Bởi vậy, cần căn cứ vào các triệu chứng của bệnh để phát hiện và điều trị kịp thời.


Hiện tại đã có biện pháp chủ động để phòng ngừa bệnh thủy đậu, đó là chủng ngừa bằng vắc-xin.

Cách phòng bệnh thủy đậu

Mặc dù bệnh có thể lây lan nhanh chóng trong cộng đồng, nhưng hiện tại đã có biện pháp chủ động để phòng ngừa bệnh thủy đậu, đó là chủng ngừa bằng vắc-xin. Đối với trẻ từ 12 tháng tuổi tới 12 tuổi, tiêm 1 liều và liều thứ 2 nên tiêm thêm cách liều thứ nhất 6 tuần trở đi hoặc trong khoảng 4 - 6 tuổi để gia tăng hiệu quả phòng bệnh và giảm việc mắc bệnh thuỷ đậu trở lại mặc dù trước đó đã tiêm ngừa. Đối với trẻ trên 13 tuổi, thanh niên và người lớn, tiêm 2 liều cách nhau tốt nhất là sau 6 tuần.

Theo Trung tâm Y tế Dự phòng Đà Nẵng, lịch tiêm vắc xin phòng bệnh thủy đậu cụ thể như sau:

  • Tiêm mũi 1 cho mọi đối tượng từ 12 tháng tuổi trở lên.
  • Tiêm mũi 2 nhắc lại cách mũi 1 thời gian là 6 tuần trở đi (không được tiêm 2 mũi cách nhau 4 tuần).

Lưu ý:

  • Không tiêm vắc xin thuỷ đậu cho phụ nữ đang mang thai.
  • Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15 đến 49 tuổi) nên tiêm vắc xin thủy đậu trước khi mang thai 3 tháng.

Sự thật về hai loại thuốc xanh, đỏ người mắc thủy đậu hay dùng

Bác sĩ Hoàng Văn Tâm, Giảng viên bộ môn Da liễu, Đại học Y Hà Nội, chia sẻ: "Khi bị thủy đậu, người bệnh thường sợ bội nhiễm. Bởi bội nhiễm ở da rất dễ gây nhiễm khuẩn các cơ quan khác và gây nên sẹo do lõm thủy đậu. Đó chính là lý do người dân thường mua Castellani (màu đỏ) hoặc xanh Methylene (có màu xanh) về bôi lên các nốt thủy đậu bởi tác dụng diệt khuẩn của chúng. Tuy nhiên, theo bác sĩ Tâm, đây là một sai lầm".

Tác dụng thực sự của Castellani và xanh Methylene

Bác sĩ Tâm cho hay Castellani bao gồm các thành phần: Basic fuchsin (có đặc tính diệt khuẩn và diệt nấm); Ethyl alcohol (làm lạnh); Acetone (làm mát và làm sạch); Resorcinol (chống ngứa, bạt sừng, chống nấm).

Tuy nhiên, loại thuốc này còn có hai thành phần có khả năng gây độc là Boric acid và Phenol. “Boric acid mang tính chống nhiễm khuẩn, nhưng ngày nay rất ít dùng trong thuốc bôi do thành phần này khi được hấp thu sẽ là chất độc. Còn Phenol ở nồng độ thấp thì ức chế các đầu mút thần kinh, có tác dụng chống ngứa. Tuy nhiên, với nồng độ cao trên diện tích rộng, chúng có thể độc với cơ thể, đặc biệt là với thận. Nó có thể gây tổn thương thận nếu dùng ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ”, bác sĩ Tâm thông tin.

Castellani được chỉ định ưu tiên với nấm bẹn và viêm kẽ do Candida, đặc biệt trên đối tượng sử dụng corticoid lâu dài. Tuy nhiên, chỉ định này chủ yếu bôi ở diện nhỏ.

Bác sĩ Tâm khuyến cáo với thủy đậu, mọi người chỉ cần dùng các thuốc bôi mỡ hoặc cream kháng sinh tại chỗ nếu có bội nhiễm. Khi bội nhiễm toàn thân, cần dùng kháng sinh đường uống.

Về thuốc xanh Methylene, chuyên gia cho hay loại thuốc này chỉ có một thành phần, có thể dùng trong một số bệnh (đường uống hoặc tiêm) và tương đối an toàn. Tuy nhiên, hiệu quả sát khuẩn trong thủy đậu thì chưa có bằng chứng, trong khi đó, tác hại có thể nhìn thấy khi dùng loại thuốc này là bẩn người và quần áo.

“Vừa qua, nhiều người chia sẻ hình ảnh một em bé bị thủy đậu có bộ mặt xanh lè. Tôi khuyến cáo người dân không nên làm tương tự, mặc dù thuốc này an toàn hơn nhưng bẩn, hiệu quả chống nhiễm khuẩn lại không đáng kể”, bác sĩ Tâm nói.

Cập nhật: 06/03/2024 Theo danviet/zing
Danh mục

Công nghệ mới

Phần mềm hữu ích

Khoa học máy tính

Phát minh khoa học

AI - Trí tuệ nhân tạo

Khám phá khoa học

Sinh vật học

Khảo cổ học

Đại dương học

Thế giới động vật

Khoa học vũ trụ

Danh nhân thế giới

Ngày tận thế

1001 bí ẩn

Chinh phục sao Hỏa

Kỳ quan thế giới

Người ngoài hành tinh - UFO

Trắc nghiệm Khoa học

Khoa học quân sự

Lịch sử

Tại sao

Địa danh nổi tiếng

Hỏi đáp Khoa học

Y học - Sức khỏe

Môi trường

Bệnh Ung thư

Ứng dụng khoa học

Câu chuyện khoa học

Công trình khoa học

Sự kiện Khoa học

Thư viện ảnh

Video