Không phải bệnh nhân nào ghép tạng cũng thành công, có trường hợp thải ghép ngay hoặc sau vài năm, nhưng cũng có người thọ thêm vài chục năm.
Cấy ghép nội tạng là việc di chuyển nội tạng từ người này sang người khác hoặc từ vị trí này sang vị trí khác trên cùng một cơ thể người, nhằm thay thế nội tạng bị mất hoặc hư hỏng. Nội tạng và mô được cấy ghép trong nội bộ một cơ thể được gọi là autograft.
Việc cấy ghép được thực hiện trên hai cá thể cùng loài gọi là allograft. Việc lấy nội tạng này có thể thực hiện trên người sống hoặc người đã chết.
Các bộ phận có thể được cấy ghép là tim, thận, gan, phổi, tuyến tụy, ruột, và tuyến ức. Mô cấy ghép được bao gồm xương, gân, giác mạc, da, van tim, dây thần kinh và mạch máu. Trên thế giới, thận là cơ quan thường được cấy ghép nhất, tiếp theo là gan và thứ ba là tim. Giác mạc và cơ xương là mô được cấy ghép phổ biến nhất; số các ca cấy ghép các mô này cao hơn số các ca cấy ghép mô khác hơn mười lần.
Các bộ phận có thể được cấy ghép là tim, thận, gan, phổi, tuyến tụy, ruột, và tuyến ức.
Người hiến tặng nội tạng có thể đang sống, chết não, hoặc chết qua cái chết tuần hoàn. Mô có thể được thu hồi từ những người hiến tạng bị chết vì cái chết tuần hoàn, cũng như chết não - tối đa 24 giờ sau khi tim ngừng đập. Không giống như các cơ quan, hầu hết các mô (với ngoại lệ của giác mạc) có thể được bảo quản và lưu giữ tối đa 5 năm, có nghĩa là chúng có thể được "lưu trữ". Cấy ghép nội tạng đặt ra một số vấn đề về đạo đức sinh học, bao gồm định nghĩa của cái chết, khi nào và như thế nào cơ quan được cấy ghép được cho phép cấy ghép, và số tiền thanh toán cho nội tạng cấy ghép.
Các vấn đề đạo đức khác bao gồm du lịch cấy ghép và rộng hơn là bối cảnh kinh tế-xã hội, trong đó việc mua sắm nội tạng để cấy ghép có thể xảy ra. Một vấn đề đặc biệt là buôn bán nội tạng. Một số bộ phận cơ thể, chẳng hạn như bộ não, không thể được cấy ghép.
Cấy ghép nội tạng là một trong những lĩnh vực khó khăn và phức tạp nhất của y học hiện đại. Một số lĩnh vực quan trọng trong việc này là những vấn đề về thải ghép, trong đó cơ thể có các phản ứng miễn dịch với các cơ quan cấy ghép, điều này có thể dẫn đến cấy ghép thất bại và cần phải phẫu thuật gỡ bỏ ngay lập tức các nội tạng đã được cấy ghép. Thải ghép có thể được giảm đi bằng phương pháp serotype để xác định xem người nhận nào là thích hợp nhất với người cho và thông qua việc sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch.
Tự cấy ghép là ghép mô trên cùng một người. Đôi khi điều này được thực hiện với mô dư thừa, mô có thể tái sinh, hoặc mô đang cần thiết hơn ở những nơi khác (ví dụ như ghép da, chiết xuất mạch cho CABG, vv). Đôi khi một quá trình cấy ghép này được thực hiện để loại bỏ các mô và sau đó điều trị mô hay người bệnh trước khi đưa mô trở về vị trí cũ của nó (ví dụ bao gồm ghép tế bào gốc tạo máu và lưu trữ máu trước phẫu thuật).
Trong một phẫu thuật rotationplasty, một khớp di chuyển được sử dụng để thay thế một khớp khác quan trọng hơn; thường là một khớp bàn chân hoặc khớp mắt cá chân được sử dụng để thay thế một khớp gối. Bàn chân của người bệnh sẽ bị cắt đôi và đảo ngược, đầu gối bị loại bỏ, và xương chày sẽ được ghép nối với xương đùi.
Trường hợp cô bé Angel Burton người Anh, 8 tuổi cực kỳ hy hữu. Cô bé bị suy thận nặng đến mức các bác sĩ phải tiến hành phẫu thuật. Điều làm kinh ngạc ngay cả các bác sĩ là khi mổ ra họ thấy Angel có tới 4 quả thận, 2 quả thận mới khỏe mạnh mọc ra chồng lên 2 quả thận cũ đang hư hỏng, chúng hoạt động độc lập với nhau. Cơ thể bé Angel Burton đã "tự chữa khỏi bệnh" cho chính cơ thể mình. Đây là hiện tượng thận kép trong y học, nó chỉ xuất hiện ở 1% dân số.
4 quả thận của Angel Burton.
Sau ghép tạng, tất cả người bệnh thường được sử dụng thuốc chống thải ghép suổt đời để duy trì sự sống cũng như hoạt động của bộ phận cấy ghép. Mặc dù người cho và người nhận tạng đều có chỉ số sinh học tương đồng nhất, nhưng mỗi một cơ thể có một hệ thống miễn dịch khác nhau. Có người bệnh sau cấy ghép hệ miễn dịch không tiếp nhận cơ quan mới dẫn tới hư hỏng tạng ghép, thậm chí dẫn tới tử vong.
Kể từ ca ghép tạng đầu tiên trên thế giới, các nhà khoa học đã tìm kiếm các cách thức để “đánh lừa” hệ miễn dịch, làm cho hệ thống này chấp nhận một nội tạng lạ. Như tiến sĩ David Sachs ở Boston, Mỹ đã từng tiến hành những cú lừa như vậy, ông đã cho tiêm tế bào gốc vào tủy xương vào người nhận tạng để tạo hệ miễn dịch mới cho người bệnh, ông hy vọng bằng cách này hệ miễn dịch sẽ dễ dàng chấp nhận "vật thể lạ" hơn. Tuy nhiên không phải trường hợp nào cũng thành công, có bệnh nhân của ông đã bị hỏng thận ghép và phải tiến hành ghép thận lần 2 để chữa bệnh.
Một trong những căn bệnh mà người ghép tạng có nguy cơ mắc phải là bệnh tiểu đường. Sau ghép tạng, người bệnh thường phải dùng thuốc ức chế hệ thống miễn dịch suốt phần đời còn lại của mình, đây lại là một nguy cơ cho các bộ phận cơ thể khác. Khi hệ thống miễn dịch bình thường bị suy yếu, người bệnh dễ bị nhiễm bệnh hơn, nhất là các bệnh thông thường như cảm lạnh, cảm cúm... Đối với các thuốc có tác dụng ức chế hệ miễn dịch trong ngành ghép tạng có thể gây ra các phản ứng phụ, làm người bệnh mất ngủ, thần kinh kích động, rậm lông, phù nề, tăng huyết áp, hay gây ra bệnh tiểu đường.... Trong những trường hợp này việc ngưng sử dụng thuốc là không thể.
Theo ước tính việc buôn bán nội tạng có giá trị hàng tỷ USD mỗi năm.
Ngay khi ngành ghép tạng ra đời, đã xuất hiện những nhu cầu về nguồn tạng ghép. Theo ước tính việc buôn bán nội tạng, hầu hết là bất hợp pháp, có giá trị hàng tỷ USD mỗi năm. Nhà báo Scott Carney đã nghiên cứu và viết một cuốn sách về thị trường chợ đen, nơi buôn bán các bộ phận cơ thể con người. Trong nghiên cứu của mình, ông tiết lộ, sau trận sóng thần lịch sử năm 2004, xuất hiện một ngôi làng ở Ấn Độ có tên Kidneyvakkam hay còn gọi là làng hiến thận. Ở đây những nạn nhân của trận sóng thần vì sự tồn tại đã phải bán đi những quả thận của mình. Rất nhiều người dân ở đây đều có sẹo ở bụng, dấu vết của một cuộc phẫu thuật lấy thận. Nhà báo Carney đặt vấn đề, nguồn nội tạng có được từ các vụ bán thận của dân nghèo nhằm phục vụ người giàu là một thị trường ngầm, vô đạo đức nhất.
Tôn giáo đã và đang là cản trở lớn đối với ngành khoa học ghép tạng, bởi mỗi tôn giáo khác nhau có niềm tin và tín ngưỡng khác nhau đối với những người đã qua đời. Đối với nhiều tôn giáo đó là sự xúc phạm vong linh của người chết, những người đồng ý hiến tạng người thân cảm thấy có tội với người chết và tổ tiên. Đạo Phật lại có quan niệm chết không toàn thây...
Ở Iran hầu hết các ca ghép tạng đều được lấy từ người cho còn sống bởi người Hồi giáo quan niệm không xúc phạm người đã chết. Trong khi người theo đạo Kito hay Công giáo dễ dàng chấp nhận việc lấy và ghép tạng thì người Do Thái lại có quan niệm hoàn toàn khác. Đối với họ, một con người vẫn được coi là sống khi trái tim còn đập, kể cả khi người đó chết não. Người Do Thái tin rằng cái chết thực sự chỉ xảy ra khi trái tim con người ngừng đập. Như vậy nếu trong trường hợp ghép tim, trái tim người hiến sẽ đập trong lồng ngực của người nhận tạng, hành động này là không thể chấp nhận được. Nó phạm vào vấn đề đạo đức.
Đến nay mỗi năm thế giới ghi nhận có khoảng 40.000 ca ghép tạng.
Cấy ghép nội tạng là một lĩnh vực mới, luôn đòi hỏi những nghiên cứu chuyên sâu về y sinh học, con người. Ca ghép tạng đầu tiên được thực hiện năm 1954, đó là một trường hợp ghép thận. Sau cấy ghép không lâu bệnh nhân đã tử vong. Phải đến 30 năm sau đó, với việc ra đời của thuốc chống thải ghép, phương pháp điều trị bệnh này mới trở thành một cuộc cách mạng trong y học. Thành công của nó đã được trao giải Nobel y học. Để có được ngày hôm nay, đòi hỏi biết bao cuộc phẫu thuật, các công trình nghiên cứu khoa học, y học trên người. Đến nay mỗi năm thế giới ghi nhận có khoảng 40.000 ca ghép tạng.
Chưa một nghiên cứu nào thống kê về tuổi thọ của những bệnh nhân đã tiến hành ghép tạng. Nhưng có thể khẳng định rằng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, những bệnh nhân ghép tạng sống thêm 10-20 năm nữa không còn là chuyện quá hiếm, họ đang được hỗ trợ để sống ngày càng thọ hơn.
Ở bệnh nhân ghép gan, nếu thành công, việc sống sau 5 năm cấy ghép đang trở thành phổ biến trên thế giới. Đối với thận, các nhà khoa học cho rằng việc ghép thận từ người còn sống làm tăng tuổi thọ cho bệnh nhân. Bệnh nhân ghép tim dường như sống ít thọ nhất so với các tạng khác như thận, gan...
Với việc phát triển của ngành khoa học ghép tạng, các nhà khoa học cho rằng trong tương lai không xa tuổi thọ trung bình của bệnh nhân sau ghép tạng cũng sẽ không thua kém gì người bình thường.
Sự xuất hiện của máy in 3-D đang trở thành một cuộc cách mạng mới trong y học. Người ta có thể tạo ra bất cứ vật thể 3-D nào chỉ nhờ một chiếc máy in, kể cả các bộ phận trong cơ thể. Đã có nhiều cuộc cấy ghép thành công nhờ máy in 3-D như thay thế mô hình tai, sụn, bàng quang, tử cung... Hiện các nhà khoa học vẫn đang tiếp tục nghiên cứu với hy vọng sẽ cho ra đời một cơ quan nội tạng thực sự như thận sinh học từ máy in 3-D. Họ dự tính sẽ phải mất từ 15-20 năm nữa để cho ra đời một quả thận sinh học đầu tiên trên thế giới.