Người ta vẫn chưa tìm được nguyên nhân hai vị vua vĩ đại nhất của đế chế Khmer khi được tạc tượng thờ lại không có hai bàn tay. Sự tài hoa tột đỉnh, những linh ứng kỳ diệu trên bàn tay của hai vị vua huyền thoại không được thể hiện.
Tuy nhiên những gì mà hai vị vua vĩ đại để lại cho nhân loại là một di sản khổng lồ và kỳ diệu mà con người bình thường không thể nào thực hiện được.
Boeng Mealea là ngôi đền nằm trong quần thể Angkor Wat, cách Siêm Riệp khoảng 70km về phía Đông Bắc, được xem là phiên bản của Angkor Wat, tương truyền là nơi chôn cất vị vua vĩ đại Suryavarman II. Ngôi đền linh thiêng cùng chung số phận với Kulen, Angkor Wat hơn 800 năm lạc mất giữa rừng già được các nhà khoa học khảo cổ Pháp phát hiện vào năm 1954.
Vương triều Angkor từng là vương triều hùng mạnh nhất lịch sử Khmer, dưới sự trị vì của vua Suryavarman II - vị vua được mệnh danh là “vị vua bách chiến bách thắng”. Cũng chính ông là người xây dựng nên Angkor Wat - một công trình vĩ đại mà người đời sau nghiêng mình thán phục. Đế chế Khmer dưới sự trị vì, mở mang bờ cõi của ông đã bành trướng đến biên giới Bắc Lào ngày nay, phía Nam đến tận bán đảo Malay, phía Tây đến tận vương quốc Pagan-Myanmar.
Sau khi nhà vua Suryavarman II tử trận, cái chết của ông cùng với vương triều Angkor Wat rực rỡ đã chìm sâu vào quên lãng. Người ta không biết và cũng không ai có thể giải thích về những bí mật của vương triều.
Theo tư liệu người Pháp để lại tại Viện Viễn Đông Bác cổ, năm 1954, các nhà khoa học Pháp đã có thông tin về một khu đền lớn như một phiên bản của Angkor Wat nằm trong khu rừng già cách Angkor Wat không xa, nhưng hoàn toàn không có đường vào. Qua những tư liệu cổ, trên các bia ký còn đặt trong đền, người ta mới biết đền Boeng Mealea chính là nơi chôn cất thi hài vua Suryavarman II cùng nhiều vàng bạc, châu báu của vương triều.
Toàn cảnh Angkor Wat.
Nhưng do chiến tranh triền miên, khu đền Boeng Mealea lại chìm đắm giữa rừng hoang. Năm 2003, chính phủ khai phá một con đường mòn dẫn vào Boeng Mealea. Đây là khu vực còn rất nhiều bom mìn vẫn chưa gỡ bỏ hết sau chiến tranh Ponpot, nên xung quanh khu vực đền, lực lượng CMAC - lực lượng rà phá bom mìn quốc tế - vẫn đang hoạt động. Khu vực rà soát bom mìn được căng cờ đỏ và có khi bom mìn chỉ cách con đường độc đạo vào đền không đầy nửa mét.
Gần như toàn bộ đền tháp đã sụp đổ hoang tàn, nhưng vẫn có thể nhận ra dáng dấp vĩ đại và sự hoành tráng của nó không thua kém gì Angkor Wat. Thậm chí, các khối đá xây đền nơi này còn to hơn cả đền Angkor, nặng trung bình 8 tấn so với 3 - 5 tấn của Angkor Wat. Đền Boeng Mealea ngày xưa như một thành phố nhỏ với diện tích 108ha và có hào nước bao bọc quanh thành, có nơi rộng đến 45m. Đền có ba lớp tường bao bọc và được trấn giữ bởi những cánh cổng bằng đá khổng lồ, chính giữa là ngọn tháp cao đến 42m nhưng đã bị gãy đổ.
Đặc biệt hơn, Boeng Mealea có đến bốn thư viện ở bốn góc thành trong cảnh hoang tàn, trong khi hầu hết các đền đài thời kỳ Angkor chỉ có hai thư viện. Trung tâm của đền có quan tài của vua Suryavarman II nằm lăn lóc dưới đất. Theo Ủy ban Apsara, từ những năm chiến tranh, không chỉ các nhà nghiên cứu khảo cổ học mà còn những băng nhóm đào bới mộ cổ đã tìm đến đây và khai quật ngôi mộ cổ này, nhiều vàng bạc, châu báu đã bị lấy đi, những mảng phù điêu tuyệt mỹ trên tường của đền cũng bị đục lấy mất và xô ngã chiếc quan tài từ trên đền xuống đất. Nhưng họ không tìm thấy được thi hài của Suryavarman II.
Phù hiệu trên tường Angkor Wat.
Sau khi vua Suryavarman II qua đời, ánh sáng mặt trời đã tắt vụt, bóng đêm và sự tuyệt vọng của đế chế Angkor huy hoàng phủ trùm lên một màu đen tóc tang. Nội bộ triều đình mâu thuẫn, lục đục, tranh giành quyền lực, các công trình đền tháp xây dựng dở dang phải ngưng trệ, đình đốn. Chiến tranh tranh giành cát cứ và ngoại xâm bấy lâu dòm ngó chờ cơ hội xâm chiếm đế chế Khmer. Cả xã hội Chân Lạp rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng cho đến khi một mặt trời mới rực rỡ xuất hiện trên bầu trời Angkor… đó là Hoàng tử Jayavarman VII.
Jayavarman VII (1181- 1220) là vua của Đế quốc Khmer, được xem là một trong ba vị vua tài năng, anh hùng lỗi lạc của dân tộc Khmer dưới triều đại Angkor. Ông là con trai của vua Dharanindravarman II (trị vì từ 1150 - 1160) và Sri Jayarajacudamani. Ông đã cưới Jayarajadevi và sau khi bà qua đời, ông cưới em gái bà là Indradevi. Người ta cho rằng hai người phụ nữ này đã truyền cảm hứng lớn cho ông, đặc biệt là lòng mộ đạo của ông đối với Phật giáo.
Nhiều giả thuyết cho rằng sau khi vua Suryavarman II tử nạn trong vùng rừng núi Vụ Quang, châu Nghệ An (Đại Việt), để tránh bị xâm hại, trả thù đời sau nên hoàng tộc đã cho làm lễ trọng đại hỏa táng thi hài vua như một cách trấn an người dân và quân binh đế chế Khmer. Sau đó tro cốt được đưa vào thờ trong đền Angkor Wat, còn quan tài và ngôi đền này được xây nên chỉ làm nơi thờ cúng hình bóng quốc vương.
Trước đó, chỉ có một vị vua khác của Đế quốc Khmer là một Phật tử. Ông là người đã cho xây dựng rất nhiều đền đài to lớn còn lưu dấu đến ngày nay như: Ta Prohm, Preah Khan, Angkor Thom, Bayon, Jayatataka Baray, Neak Pean, Ta Som, Ta Nei, Ban Teay Chhmar, Prasats Chrung, Sân Voi, Ta Prohm Kel, Hospital Chapel, Krol Kô, Srah Srang, Royal Place.
Trong số những ngôi đền đó, nổi tiếng nhất là kinh thành Angkor Thom với đền Bayon là sự tuyệt mỹ về kiến trúc và điêu khắc. Nơi đây còn có tên gọi là Đền Đế Thích - một kiệt tác kiến trúc chỉ sau Angkor Wat mà tổ tiên ngài là vua Suryavarman II đã xây dựng nên.
Jayavarman VII lúc sinh thời được sử sách lưu truyền là một người thích sống ẩn dật, chọn lối sống thanh bần, tu niệm theo Phật, tỏ ra rất thờ ơ với mọi biến động trong đời sống chính trị, xã hội Khmer. Tuy nhiên, nhìn thấy đất nước Chân Lạp quá tang thương vì loạn lạc và bị ngoại xâm giày xéo, ông thấy không còn con đường nào khác hơn là theo con đường kiếm cung mới mong cứu được đất nước qua cơn nguy khốn, mang lại no ấm cho muôn dân và sự cường thịnh của một vương quốc từng kiêu hãnh, hùng mạnh.
Lúc bấy giờ, đất nước Chân Lạp đã rơi vào tay Chiêm Thành, đền Angkor Wat và mọi thể chế hùng mạnh của vương triều Suryavarman II hoàn toàn bị xóa sổ. Ông dấy binh khởi nghĩa từ rừng núi Kulen nơi Tiên đế dựng nghiệp và tập hợp các thế lực hùng mạnh đang cát cứ trong các tỉnh thành lúc bấy giờ chống lại quân xâm lược Chiêm Thành. Sau bốn năm chiến đấu, ông đã đánh đuổi được quân Chiêm Thành ra khỏi đất nước, khôi phục lại sự thanh bình và xây dựng nên một đất nước hùng mạnh.
Để thực hiện sự nghiệp giải phóng đất nước, trước khi lên ngôi, Jayavarman VII bắt đầu xây dựng lại quân đội, rồi tiến hành nhiều cuộc phản công, trong đó có một trận hải chiến oanh liệt và hiển hách nhất lịch sử đã được miêu tả trên bức tường đá chạm nổi ở các đền Bayon và Bantay Cherma ngày nay. Sau khi giành lại độc lập, Jayavarman VII lên ngôi Quốc vương. Ông liền bắt tay vào việc khôi phục lại kinh đô và cho xây dựng ở đây một khu thành mới gọi là thành Yaxodarapura.
Bản văn bia có thuật lại với những lời lẽ rất nên thơ trong ngày đó như sau: “Buổi lễ đăng quang của vua Jayavarman VII tổ chức bốn năm sau ngày thất thủ kinh đô. Kinh thành Yaxodarapura giống như một cô thiếu nữ hiền hậu, xứng đôi vừa lứa với người yêu của mình, nhiệt tình và say đắm, được trang trí bằng một tòa lâu đài dát vàng ngọc với những dãy thành quách bao bọc như một dải lụa che thân: cô thiếu nữ đó được nhà vua cưới để tạo ra hạnh phúc cho muôn loài trong một buổi lễ huy hoàng, dưới đài vinh quang sáng chói”.
Nằm ở trung tâm quần thể Angkor Thom và cách Angkor Wat khoảng 300m, Bayon là ngôi đền ấn tượng nhất của kiến trúc đền núi Campuchia bởi sự kỳ vĩ về quy mô cũng như cảm xúc mà nó đem lại.
Từ xa, du khách có thể cảm nhận cảnh đẹp tuyệt vời được phô bày ngay trên con đường chính dẫn tới cổng đền thờ. Dọc theo hai bên đường lát đá phiến bắc qua một con sông đào, hai bên là 54 bức tượng khổng lồ ôm ngang lưng rắn thần Nagar chia thành hai hàng cân xứng: bên trái là các thần, bên phải là các quỷ.
Một vài pho tượng khiếm khuyết từng bộ phận đầu, mình, tay chân do thời gian cùng các biến động của lịch sử và chiến tranh. Hầu hết các pho tượng này đều quay lưng lại đền, ngả người ra sau với dáng điệu mạnh mẽ mô tả lại điển tích “khuấy biển sữa tìm thuốc trường sinh” mà vị vua Jayavarman VII cùng thần dân từng mong mỏi tìm thấy được. Một kiệt tác kiến trúc ngàn năm vẫn làm lòng người hậu thế xao xuyến, bâng khuâng.
Nếu như Angkor Wat với năm ngọn tháp lớn đã trở thành biểu tượng của vương quốc Campuchia thì những khuôn mặt Phật tạc trên những ngọn tháp đền Bayon là niềm tự hào lớn lao của người dân xứ xở này. Đó là bức thông điệp ngàn xưa mà Bayon muốn gửi lại mai sau như một khát vọng về hòa bình, lòng từ mẫn, thánh thiện đã khắc họa nên nụ cười Bayon bất tử. Khuôn mặt của đức Phật khổng lồ được tạc trên đá, sừng sững giữa trời đất, thách thức mọi biến đổi của thời gian là đề tài cho những cuộc tranh luận không dứt về những điều huyền bí ẩn chứa trong nét chạm khắc của những người thợ đá vô danh xưa kia. Có bao nhiêu Phật, Thần trong chùa là có bấy nhiêu cách thể hiện nụ cười, hướng nhìn khác nhau.
Vũ nữ APSARA tai Angkor Wat.
Chính vì thế, 54 ngọn tháp tại Bayon đã được thiết kế như một mê cung tròn đồng tâm, trên đó khắc trăm khuôn mặt với nụ cười huyền bí đã mãi đi vào lịch sử của miền đất cổ kính này. Điều gây ấn tượng mạnh mẽ nhất ở mỗi ngọn tháp là 4 khuôn mặt của Đức Phật xoay theo 4 hướng với cặp môi hé nở nụ cười mầu nhiệm như truyền gửi thông điệp tới cả ngàn vạn kiếp luân hồi.
Và Bayon đâu chỉ chứa đựng bí mật về nụ cười trầm mặc trên hàng trăm khuôn mặt Phật, mà mỗi bậc thang để xuống dưới chân ngọn tháp chính, trên các bức tường nối các hành lang chạy xuyên cắt nhau như một mê cung còn ẩn chứa nguyên vẹn nét sinh động của hàng trăm ngàn vũ nữ Apsara được chạm trên các phiến sa thạch.
Truyền thuyết Khmer cổ kể lại, những vũ nữ có điệu múa mê hồn này đã được hóa thân từ chính nước biển khi các thần linh cùng rắn thần Nagar khuấy tung biển sữa tìm thuốc trường sinh. Một hình tượng lãng mạn như chính vũ điệu mà con người có thể cảm nhận khi nhìn ngắm vũ nữ trên từng phiến đá.
Đôi tay mềm mại, khéo léo kỳ diệu, tấm lưng thon thả, nụ cười hé mở và đôi chân như nhún nhảy vẫn theo nhịp trống và tiếng đàn ngũ âm từ xa xăm vọng về. Không chỉ tại Bayon mà tại tất cả các kiến trúc cổ của đất nước Chùa Tháp này, đâu đâu cũng có thể chiêm ngưỡng vũ điệu uốn lượn của các vũ công Apsara trên các bức tượng đá và chạm khắc trên tường đá.
Nếu như Angkor Wat tạo nên sự kinh ngạc vì những bức họa tinh vi và hoành tráng thì tại Bayon là một sửng sốt, bởi các phù điêu có nội dung phong phú, sinh động hơn nhiều, bao gồm cả cảnh sinh hoạt đời thường và tôn giáo, lịch sử. Ở đó, các phù điêu mô tả một cách sống động những điển tích về nghi lễ tôn giáo, các sinh hoạt lễ hội, cảnh vui chơi giải trí, cảnh chiến binh Khmer giao chiến cùng quân đội Chiêm Thành bằng thủy binh giành lại đất nước...
Với những bức phù điêu này, Bayon đã tái hiện lại cho các thế hệ sau một bách khoa toàn thư về cuộc sống, phong tục tập quán, phong cảnh của hàng trăm năm trước. Một điều thú vị về sự phân chia đẳng cấp trong xã hội xưa cũng được thể hiện rõ nét ở đây: nếu như các cảnh đời thường của người dân được chạm phía ngoài, thì tại hành lang phía trong, các bích họa lại mô tả chủ yếu cuộc sống cung đình, cảnh múa hát trong cung đình, cảnh vua chúa, quan lại trong cuộc sống vương giả.
Phủ dày sau lớp màn thời gian, hình ảnh vàng son dĩ vãng của vương triều Jayavarman VII cũng như hàng trăm, hàng ngàn người thợ vô danh đã tạo dựng nên khu điện thờ Bayon đã trở thành huyền thoại, thành một đề tài gây nhiều tranh cãi trong giới học thuật. Song, dù hiểu biết hay không về lịch sử, kiến trúc hay tôn giáo, mỗi người khi đứng trước các khuôn mặt Phật chạm khắc trên từng ngọn tháp đang nở nụ cười gửi về thế giới đều cảm nhận rõ rệt những cảm xúc đặc biệt đang dâng lên trong lòng.
Và, dù triều đại và thời thế đã đổi thay, nhưng Bayon - ngôi đền kỳ lạ nhất và cũng lãng mạn nhất của dân tộc Khmer - vẫn trường tồn cùng với đất nước Campuchia và nhân loại như một công trình kiến trúc lịch sử đầy sáng tạo của con người.
Bayon là khu đền kiến trúc theo một nghệ thuật đầy cảm hứng và sáng tạo với những trang trí chạm khắc bằng đá đẹp đẽ và hoành tráng vô cùng. Đền Bayon được xây dựng trong khoảng cuối thế kỷ thứ 12 và đầu thế kỷ thứ 13 như là đền núi chính thức của vua Jayavarman VII, tin theo Phật giáo Đại thừa khác với tín ngưỡng Ân Độ giáo như các vua đời trước nhưng vẫn theo truyền thống vua thần (Devaraja).
Vua Jayavarman VII cải giáo sang Phật giáo Đại Thừa vì ngài cho rằng, các vua đời trước nối nghiệp nhà vua vĩ đại Suryavarman II đều theo Ấn Độ giáo, là người xây dựng Angkor Wat huyền thoại cũng đã bị quân Chiêm Thành đánh bại. Sự thay đổi về quốc giáo cũng là sự tách biệt về tôn giáo, tín ngưỡng riêng của mọi thần dân đế quốc Khmer như là một khẳng định về ý thức tự chủ, tự cường của xã hội, quốc gia Chân Lạp từ khi vua Jayavarman VII lên ngôi trị vì. Cũng từ đó, sau khi Jayavarman VII băng hà, những đời vua nối tiếp với tín ngưỡng khác nhau như Ấn Độ giáo, Phật giáo nguyên thủy, cũng đã cho xây thêm những ngôi đền dựa theo tín ngưỡng của mình.
Cấu trúc của Bayon gồm ba tầng, ngày nay cả ba tầng đều đổ nát nhiều, gạch đá nằm ngổn ngang khắp nơi do chiến tranh và sự lưu lạc tám thế kỷ giữa rừng già. Hai tầng phía bên dưới bố trí theo hình vuông, tô điểm bằng những phù điêu, chạm khắc tinh xảo trên tường. Tầng thứ ba được sắp xếp theo hình tròn với nhiều tháp mà các mặt đá có hình khuôn mặt Phật.
Dãy hành lang ở tầng dưới là một kho tàng nghệ thuật với 11 ngàn bức phù điêu chạm khắc trên tường đá chạy dài 1200m, một tổng hợp liên quan đến lịch sử lẫn các truyền thuyết, miêu tả cảnh diễu hành của vua và hoàng gia, những trận đánh của vua Jayavarman VII với Chiêm Thành bằng cả thủy lẫn bộ chiến, ngoài ra còn miêu tả đời sống văn hóa, xã hội của một nền văn minh đã bị lãng quên từ bao thế kỷ. Nhiều khoảng tường vẫn còn dở dang, chỉ còn để lại nét phát họa, có lẽ bị dở dang khi vua Jayavarman VII qua đời.
Hình ảnh nổi bật nhất của Bayon vẫn là những ngọn tháp cao vút ở trung tâm bằng đá tảng, chạm khắc thành 2 - 3 và chung chung là 4 khuôn mặt nhìn bốn hướng. Kiến trúc của Bayon được xem như có phong cách của trường phái Baroque, trong khi Angkor Wat thuộc phái cổ điển. Sự tương đồng của vô số khuôn mặt khổng lồ ở trên các tháp của đền Bayon với các bức tượng khác của vua Jayavarman VII khiến nhiều học giả đi đến kết luận đây chính là khuôn mặt của nhà vua.
Có người cho là của mặt của Quan Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvara hay Lokesvara). Nhà học giả chuyên về Angkor học Coedes thì lý luận rằng Jayavarman VII theo truyền thống của các vua Khmer tự cho mình là vua thần (Devaraja), khác với các vua trước theo Ấn Độ giáo tự cho mình là hình ảnh của thần Shiva, trong khi Jayavarman VII là một Phật tử nên cho hình ảnh Phật và Bồ tát là chính mình. Có tất cả 37 tháp đền đá tạc hình nhiều khuôn mặt nhìn xuống và nhìn đi bốn hướng như thể quan sát chúng sinh và che chở cho đất nước.
Bên trong đền có hai dãy hành lang đồng tâm ở tầng dưới, và một dãy ở tầng trên. Tất cả nằm dồn lại với nhau trong một không gian hạn hẹp 140 x 160m, trong khi phần chính của ngôi đền nằm ở tầng trên lại còn hẹp hơn với kích thước 70 x 80m, khác với Angkor Wat, người ta phải trầm trồ với qui mô to lớn và thoáng rộng của nó. Từ xa nhìn vào, Bayon trải dài theo chiều ngang như một đống đá lổn nhổn muốn vươn lên trời cao với không gian dường như không có giới hạn.
Đền Bayon tạo cho con người cảm giác bay bổng và chinh phục hoàn toàn bởi vẻ đẹp mẫu mực và đầy sống động. Ngôi đền được tạo thành bởi 50 ngọn tháp bằng đá. Cốt lõi của nó là một quần thể kiến trúc được xây dựng kiểu bậc thang với 16 bảo tháp hạng trung với nhiều tháp nhỏ liên kết với nhau, chính giữa là một tháp vàng hình tròn, cao 45m. Đỉnh của mỗi ngọn tháp, cả 4 mặt đều có tượng Phật mỉm cười. Những phù điêu bằng đá ở Bayon kể lại sự tích Phật Thích Ca và chúng là cuốn biên niên sử về cuộc sống của người Campuchia trong thời đại Angkor.
Toàn bộ Angkor với những tháp, đền đài, phù điêu và hành lang mênh mông đều làm từ các tảng đá xếp chồng lên nhau với dáng vẻ rất tự nhiên, ngay cả ở trên nóc vòm. Tất cả các họa tiết trang trí bằng đá như tượng Phật, vũ nữ, chiến binh và những hình hoa sen minh họa sử thi Ramayana và Mahabharata đều rất sống động, mềm mại. Với 1.700 nàng Apsara ở Angkor là 1.700 vũ nữ hoàn toàn khác nhau với thân hình tuyệt mỹ, những vẻ mặt, tư thế, động tác hình thể không hề trùng lặp. Vì sao là con số 1.700 mà không là con số khác? Đây vẫn là một câu hỏi trong nhiều câu hỏi chưa tìm được lời giải đáp ở Angkor ngày nay.
Một chiều nào đó, ở một góc nào đó trong hành lang của Angkor Wat hay đền Bayon, khi ánh nắng chiều hắt những sợi vàng óng ánh phủ lên khu vực đền tháp kỳ vĩ, con người sẽ tự đắm chìm trong suy tưởng, chiêm nghiệm và thả hồn ra đón gió mát và ngắm nhìn những chú voi đủng đỉnh nện bước chân dạo quanh vòng thành cổ để mơ về một ngày xa xưa khi những bậc quốc vương vĩ đại huyền thoại của triều đại Angkor đang khởi hành xa giá…
Trở lại câu chuyện cũ, vì sao những bức tượng người xây dựng nên Angkor Wat và Angkor Thom, Bayon huyền thoại không có hai bàn tay ? Chắc hẳn không hề có sự vô ý của con người mà là sự cố tình để không ai hiểu được những bí mật, những nhiệm mầu và bí ẩn của những vị vua vĩ đại hóa thân thành Thần, Phật trong truyền thuyết Khmer. Không ai vẽ chỉ tay trên bàn tay hay chân của Phật dù có hàng triệu tượng Phật được xây, tạc trên đời. Cũng như các vị vua vĩ đại xây dựng nên Angkor huyền thoại, nếu là bàn tay người thường, hẳn không thể có những đền tháp vĩ đại kia.
Chuyện kể lại rằng, ngày xưa có một vị hoàng đế muốn các danh họa tài ba trong thiên hạ vẽ hình ảnh Hoàng hậu cực kỳ xinh đẹp của mình. Tất cả danh họa tài ba được mời đến đều bị đuổi về vì khi vẽ xong, các quan đại thần người khen mặt đẹp, mắt xinh, nhưng lại có kẻ chê vẽ tóc không đẹp, dáng không giống… Các danh họa lần lượt bị chém đầu vì tội khi quân. Bỗng có một họa sĩ xin được vẽ Hoàng hậu, mọi người ngạc nhiên và can ngăn vì không muốn thấy thêm một cái đầu lìa khỏi cổ.
Người họa sĩ lặng lẽ ngồi uống cạn mấy bình trà rồi lấy bút vẽ mấy nét và đổ mực lên khá nhiều… Bức vẽ dâng lên, vua vô cùng ngạc nhiên và giận dữ vì không thấy bóng dáng Hoàng hậu đâu cả. Người họa sĩ từ tốn bẩm: “Tâu bệ hạ, thần vẽ Hoàng hậu xinh đẹp đang trùm chăn ngủ. Bởi khi Hoàng hậu nằm ngủ trong chăn, không ai nhìn thấy gì cả. Vì không ai có thể vẽ giống hệt như nhân vật mẫu, cũng như không có ai trên đời có nét đẹp hoàn chỉnh tuyệt đối”. Vua hiểu ra sự việc, thôi không cần thợ vẽ nữa và ban thưởng cho người họa sĩ thông minh tài trí kia.
Huyền thoại Angkor muôn đời vẫn là huyền thoại bất tử vì tất cả bí ẩn của hai vị vua vĩ đại và Angkor Wat, Angkor Thom, Bayon mãi mãi bất tử. Hai cánh tay của vua trên tượng đá có hay không có là một bí ẩn nhiệm mầu. Nhưng đền tháp kỳ quan nhân loại là hiện hữu có thật trên đời.