Loài “kiến dũng sĩ” bắt ấu trùng kiến đen về nuôi làm nô lệ. Chúng giúp xây tổ, tìm thức ăn, nuôi “trẻ", quét dọn, bón cho chủ ăn, thậm chí đánh giết đồng loại để cướp nô lệ mới cho chủ.
Với khoảng 10.000 tỷ “dân”, loài kiến có mặt ở khắp mọi nơi, chỉ trừ những đỉnh núi băng ở hai cực. Nhờ có một bộ máy tổ chức “xã hội” khá phức tạp và quy củ nên dù ở bất cứ nơi nào, sâu trong lòng đất hay trên những ngọn núi cao, chúng đều sống như một vị thủ lĩnh của các loài côn trùng. Hơn thế nữa, sự “thông minh”, biết hiệp lực và đoàn kết đã giúp sinh vật nhỏ bé này tồn tại được hơn 140 tỷ năm trên trái đất.
Loài kiến nhìn chung là loài sống kiểu du cư, săn bắt. Thế nhưng trong những khu rừng rậm nhiệt đới ở Goatemala hay Brazil, có một loài kiến tên là Cheye (kiến cắt lá) đã định cư và lấy cấy trồng làm kế sinh nhai. Cứ đến đêm, loài kiến này lại tiến quân vào nơi cây lá rậm rạp. Những con khỏe mạnh trai tráng đi đầu, chịu trách nhiệm cắt (cắn) lá cây. Những con “trung niên” xén lá cây đã cắt thành hình tròn hoặc bán nguyệt, để những con yếu hơn vận chuyển về tổ.
Ở tổ, kiến kỹ thuật (chuyên lo “công nghệ” cấy trồng) nhanh chóng nghiền lá cho nát vụn ra, đồng thời tiết nước bọt để trộn đều. Rồi chúng cấy lẫn lên đó những sợi nấm giống vẫn cất giữ. Chẳng bao lâu sau, trên đống lá vụn đó đã mọc trắng những cây nấm. Các “kỹ sư trồng nấm” còn biết khống chế không cho nấm nở xoè, chỉ cần to bằng quả táo là chúng cắn đứt, phân chia cho cả bầy cùng ăn.
Điều đáng ngạc nhiên là chúng cũng biết cách bón phân, thu hoạch, cắn bỏ những loài nấm không ăn được, chọn ra loài nấm cao sản và cất trữ lại để làm giống cho vụ sau. Kỳ lạ hơn nữa, kiến hiểu được cả “kỹ thuật phòng ấm”. "Vườn nấm” của chúng có thể ví với phòng trồng nấm, nuôi khuẩn nhân tạo của con người. Ở đó, do lá cây lên men, mục rã nên nhiệt độ luôn ở mức 25 độ C và độ ẩm tương đối là 56%.
Ở Mỹ và Mexico có một loài được gọi là “kiến nông nghiệp”, bởi vì chúng biết trồng lúa. Vào những ngày mát mẻ, cả đàn kéo nhau ra khỏi tổ, dọn cho thật sạch cỏ xung quanh rồi gieo một loại “gạo kiến”, thứ mà chúng rất thích ăn, xuống khu đất vừa dọn cỏ. Để gieo hạt, chúng dùng răng và càng trước để đào hốc, rồi vùi các hạt vào trong đất.
Quân đội kiến (Ảnh: typepad)
Khi “lúa” đã mọc, chúng lại làm cỏ, phân công chăm sóc, trông coi rất cẩn thận. Đến mùa lúa chín, chúng kéo cả đàn tới thu hoạch, mang về cất trong kho dự trữ. Vào những ngày trời nắng, chúng còn mang “gạo” ra phơi, có lẽ là để đề phòng mốc thối.
Có một loài kiến biết nuôi loài nha trùng (sâu hại cây bông, cây thuốc lá) để lấy sữa, giống như con người nuôi bò sữa vậy. Trong hang, chúng cũng làm chuồng cho "bò”. Mùa xuân ấm áp, các chú kiến mục đồng cho bò ra ngoài hang, đưa lên những tán cây rậm rạp để chăn dắt. Để bảo toàn đám vật nuôi, kiến ta lấy bùn đắp thành những con hào trên cành cây.
Đến kỳ lấy sữa, mỗi con “bò” cho kiến một giọt trong một giây, mỗi ngày được cho 25 mg. Nếu sữa nhiều không ăn hết, chúng liền gọi đám kiến thợ đến. Đám kiến thợ này luôn có tinh thần “tử vì ăn”. Chúng uống đầy ắp một bụng sữa, đến mức không cựa quậy được nữa, bám trên các xà ngang trong hang, chết và trở thành túi sữa dự trữ sữa cho kiến mục đồng.
Cũng có lúc, do tranh giành “bò sữa” của nhau mà giữa lũ kiến sinh ra kịch chiến. Những cuộc chiến tranh như vậy thường rất tàn khốc, thây chất thành "núi".
Một số loài kiến ở các khu rừng nhiệt đới châu Mỹ Latinh có riêng những “đơn vị công binh”, làm việc rất hiệu quả. Để tạo thuận lợi cho những con kiến thợ vận chuyển lương thực về tổ, loài kiến Eciton burchellii đã dùng chính cơ thể mình để bắc thành cầu ngang qua các “ổ gà”, “ổ trâu” chứa nước.
Các nhà nghiên cứu Scott Powell và Nigel Franks thuộc Đại học Bristol (Anh) đã dùng những tấm ván có đục lỗ với đường kính khác nhau để thử nghiệm hành vi của loài kiến này. Họ ghi nhận rằng kích thước của con kiến bắc cầu tương đương với kích thước của lỗ. Những lỗ có đường kính lớn thì sẽ có nhiều con kiến hợp lại để tạo thành cầu. Chúng chỉ về tổ khi cả đàn đã qua “sông”.
Có một loài “kiến dũng sĩ” rất dũng cảm và thiện chiến. Hàm trên của chúng nhọn hoắt như mũi kim, là vũ khí sắc bén lúc lâm trận. Thế nhưng thứ vũ khí này khiến chúng không thể tự ăn được, phải có một loài kiến khác, gọi là “kiến nô lệ”, bón cho ăn.
Kiến nô lệ bị cướp đi từ ấu trùng kiến đen rồi được nuôi lớn. Chúng giúp kiến dũng sĩ xây tổ, kiếm thức ăn, nuôi “trẻ nhỏ”, quét dọn rác rưởi và bón cho chủ ăn, thậm chí còn giúp chủ xông vào bầy kiến đen để giết dòng tộc của mình và cướp nô lệ mới.
Kiến nô lệ bận bịu suốt ngày, ăn uống thường thiếu thốn nên chỉ thọ được khoảng 2 tháng. Tuy vậy, kiến dũng sĩ không bao giờ cướp kiến lớn về làm nô lệ. Các nhà nghiên cứu cho rằng đó là vì kiến dũng sĩ đề phòng loại kiến lớn biết được đường trốn thoát, có khi còn biết chống lại chủ. Kẻ ăn trên ngồi trốc này chỉ cướp ấu trùng vì chúng còn quá nhỏ, không thể biết mình đã bị cướp về và tưởng rằng ông chủ chính là thân thích của mình, dẫn đến trung thành tuyệt đối.
Ở Liên Xô cũ có một liên bang kiến khá nổi tiếng, do khoảng 1.500 tổ kiến hợp thành. Bình quân mỗi tổ cao tới 1,5 m, đường kính 7m, nom như một gò đất, thậm chí như một quả đồi nhỏ.
Loài kiến này đầu to, thuộc họ kiến vàng. Cứ 3-4 tổ hợp thành một “bang”, giữa các bang lại có những hành lang phân cách. Trong các khu rừng do chúng đồn trú, không có “chỗ đứng” cho các loại côn trùng phá hại.
Nhà nước Liên Xô cũ bảo vệ những khu rừng này rất nghiêm ngặt, coi lãnh địa của liên bang kiến là vùng cấm, xe cộ không được đi vào các khu vực đó.