Vào thời nhà Thanh, có một hình phạt khiến các tù nhân khiếp sợ, đó là đày đến Ninh Cổ Tháp. Khi tù nhân bị đày đến đây sẽ phải cận kề cái chết, và thậm chí nhiều người thà bị kết án tử hình còn hơn bị đày đến Ninh Cổ Tháp.
Lưu đày là một hình thức tra tấn thời cổ đại, và đây là hình phạt nặng chỉ đứng sau hình phạt tử hình. Tùy theo tội danh bị kết án, tù nhân sẽ bị kết án ở các mức độ khác nhau. Khoảng cách lưu đày là dưới 3.000 dặm.
Một góc của Ninh Cổ Tháp được lưu lại.
Vào thời nhà Thanh, các tù nhân phạm tội sẽ bị lưu đày đến Ninh Cổ Tháp. Đây là khu biên cương trọng điểm ở biên giới phía Đông Bắc dưới thời nhà Đại Thanh, nay thuộc địa phận tỉnh Hắc Long Giang (Trung Quốc). Bởi vậy triều đình rất coi trọng việc phát triển và xây dựng Ninh Cổ Tháp. Vùng đất này cần nhiều người đến sinh sống để phát triển, và nghiễm nhiên, ngôi Ninh Cổ Tháp này trở thành một trong những lựa chọn để nhà Thanh lưu đày tù nhân.
Khí hậu tự nhiên ở đây khắc nghiệt, dân cư thưa thớt. Khu vực xung quanh hầu như chỉ có rừng nguyên sinh, đất hoang và đầm lầy. Không có người, nhưng tất cả các loại động vật hoang dã. Vào mùa đông Ninh Cổ Tháp sẽ bị bao phủ bởi tuyết, gió sẽ dữ dội, và nhiệt độ tối thiểu có thể lên tới âm 50 độ.
Học giả Ngô Triệu Khiên cũng từng viết: "Ninh Cổ Tháp nghèo khổ nhất thiên hạ, từ mùa xuân tới trung tuần tháng 4, gió to, sấm giật, chớp lóe; tháng 5 tới tháng 7 mưa dầm liên tục; giữa tháng 8 đã có tuyết rơi; tới tháng 9 thì sông ngòi đều đóng băng cả. Tuyết vừa chạm đất lập tức kết thành băng, ngàn dặm chỉ thấy trùng trùng tuyết trắng".
Vùng đất hoang với khí hậu khắc nghiệt khiến các tù nhân khiếp sợ.
Trên đường đến nơi đày ải, phạm nhân đeo xiềng xích nặng hàng chục cân, bị quân lính áp giải. Với xiềng xích trên người đi lại rất khó khăn, nhà Thanh yêu cầu những tù nhân bị đày ải phải đến nơi đày ải trong thời gian quy định nếu không sẽ bị trừng phạt.
Để tránh tăng ca, quân lính thường thúc giục tù nhân đi bộ ít nhất 50km mỗi ngày, kể cả khi thời tiết xấu cũng không cho tù nhân nghỉ ngơi. Hơn nữa, phụ nữ trong thời nhà Thanh bị trói chân, việc dùng đôi chân nhỏ để đi 50km một ngày là một việc làm tàn nhẫn.
Suốt chặng đường dài xa xứ tù nhân không được ăn ngày ba bữa. Nhà Thanh quy định việc phân phát lương thực hàng ngày cho tù nhân lưu đày là 8 lạng tức không đến một cân. Nếu tù nhân dưới 15 tuổi chỉ được ăn 4 lạng. Nhưng dù lượng thức ăn đã ít ỏi nhưng nếu gặp đội lính có tính xấu thì 8 lạng lương thực sẽ bị xâm chiếm, hơn nữa còn không được cho ăn, bỏ đói suốt 50km.
Thái độ của quân lính quyết định chất lượng cuộc sống của các tù nhân bị đày ải trên đường đi. Và một yếu tố tác động quan trọng là liệu các tù nhân bị đày có hối lộ hay không. Tuy nhiên đã bị kết án đày ải, phạm nhân làm sao còn có tiền đút lót? Nếu không lấy được hối lộ, quân lính sẽ không hài lòng, đương nhiên sẽ gây khó dễ cho tử tù trên đường áp giải.
Hành trình dài, trên đường đi còn băng qua rừng nguyên sinh, những tội nhân bị lưu đày tới đây phần lớn đều bị dã thú ăn thịt, nếu không thì cũng chết đói trên đường. Do đó, tỷ lệ tử vong của các tù nhân trong quá trình áp giải là rất cao, theo ghi chép thì chỉ 1/3 số người đày ải có thể đến được Ninh Cổ Tháp.
Ngay cả khi có thể đến được Ninh Cổ Tháp một cách an toàn, thì những đau khổ và tra tấn vẫn chưa kết thúc đối với những người lưu vong. Vào mùa đông, Ninh Cổ Tháp sẽ âm 50 độ, tù nhân sẽ phải đối mặt với việc không có áo khoác chỉ có bộ quần áo mỏng chống lại cái lạnh đáng sợ mỗi ngày. Tóm lại, vào giữa và đầu triều đại nhà Thanh, nơi này hoàn toàn không phải là nơi dành cho người ở.
Nữ phạm nhân trên đường đi đày ải phải chịu nhiều đau khổ.
Những tù nhân bị lưu đày không phải hoàn toàn bị bỏ tù, họ phải thực hiện nhiều công việc lao động nặng nhọc khác nhau, chẳng hạn như khai khẩn đất hoang và làm ruộng, khai thác gỗ và khai thác đá, xây dựng cầu đường. Phạm nhân làm việc cả ngày lẫn đêm, ít có thời gian nghỉ ngơi, ăn uống ít nên hầu hết đều gầy còm. Khi quan viên có tâm trạng xấu, có tính bạo ngược thì sẽ bị đánh cho tơi tả. Mục đích của những việc này nhằm tận dụng lao động khổ sai của người phạm tội để xây dựng, cải tạo vùng đất tồi tàn của hoàng tộc triều đình.
Cô đơn vô tận cũng là một kiểu tra tấn đối với các tù nhân. Họ chỉ có làm việc ngày này qua ngày khác, không có hy vọng hay kỳ vọng vào ngày tháng, cơ hội được hoàng đế ân xá cho các tù nhân ở Ninh Cổ Tháp gần như bằng không.
Có thể bạn sẽ hỏi tại sao bạn không chọn cách chạy trốn? Trên thực tế, khu vực này hầu hết không có người ở và những con thú hoang thường nhăm nhe tấn công. Có thể bạn đã trở thành thức ăn của những con thú ngay khi bạn ra ngoài.
Và nếu tù nhân cố gắng thoát ra, thì gia đình sẽ phải gánh chịu hậu quả. Xét cho cùng, vào thời điểm đó, hoàng đế có rất nhiều quyền lực. Những nữ tù nhân bị đày đến Ninh Cổ Tháp bị giam cầm trong suốt quãng đời còn lại, nhiều người không chết vì bệnh tật thì cũng chết vì trầm cảm trong cô đơn hàng chục năm.
Tù nhân bị đày đến Ninh Cổ Tháp nói chung phải thụ án 10 năm tù ở đó, sau đó mới được thả tùy theo hoàn cảnh, tuy nhiên, nhiều người khó kiên trì đến 10 năm sau mà chết giữa chừng.
Vì cuộc sống của tù nhân ở chùa Ninh Cổ Tháp còn tệ hơn cái chết, nên vào thời nhà Thanh, người ta thường nói rằng "thà đi đường Hoàng Tuyền còn hơn đi chùa Ninh Cổ Tháp".