Ngày 4 tháng 5 năm 2007 - Một nghiên cứu gia ở Cornell và vợ đã chỉ đạo cuộc rà soát tổng thể về những căn bệnh di chứng phát triển trong tử cung cũng như ở trẻ sơ sinh ở những người không tránh khỏi ảnh hưởng của thuốc tây hoặc với các chất độc hại môi trường. Họ cho rằng hầu hết các căn bệnh này đều có hai điểm chung: Chúng có liên quan đến hệ thống mất cân bằng miễn dịch và những phản ứng gây viêm rất trầm trọng (ở mức độ viêm loét).
Trong mục xem xét và bình luận nói về phát triển chất miễn dịch chất độc (DIT), được xuất bản trên tờ Current Medicinal Chemistry, ông Rodney Dietert, Giáo Sư khoa miễn dịch chất độc học của trường Đại học dược Thú Y ở Cornell, và Janice Dietert thuộc nghành cố vấn trình bày ở Lansing, New York, đã nhận thấy: Hầu hết các căn bệnh mãn tính kết hợp với DIT chia sẽ thiệt hại có tính miễn dịch này cùng một kiểu với nhau.
Các căn bệnh liên kết với DIT bao gồm: bệnh suyễn, dị ứng làm chặn lại sự tiếp nhận vắc-xin, gia tăng sự nhạy cảm cho các loại bệnh nhiễm trùng, những trạng thái hành vi về thần kinh ở trẻ em, sự tự miễn dịch, ung thư, chứng bại não, chứng xơ vữa động mạch, chứng tăng huyết áp và chứng vô sinh ở nam giới.
Theo Dietert, các chất độc gây ra những vấn đề miễn dịch phát triển ở các bào thai và trẻ sơ sinh gồm: thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ, cồn, kim loại nặng (chì, thủy ngân, vv….), việc hút thuốc lá ở người mẹ, các loại thuốc kháng sinh, khí thải từ xăng dầu, lạm dụng thuốc các loại và nhóm chất PCBs.
Các nhà nghiên cứu cho biết: "Những loại thuốc giải độc dành cho DIT - cho chúng ta nhiều hứa hẹn có thể lấy từ nhiều nguồn khác nhau gồm các chất hóa học chiết xuất từ cây cỏ và nấm, từ các loại nấm rơm cho đến cỏ ba lá. Hai quy trình miễn dịch như - sự cân bằng tế bào T trợ giúp và sự mưng mủ tế bào hình cây – cả hai đều bị làm tổn hại bằng cách phá vỡ quy tắc chức năng tế bào gây viêm sưng, dẫn đến những sự phản ứng do viêm sưng rất mãnh liệt."
Biết rằng những mô hình miễn nhiễm hoạt động bất thường chung nhất từ DIT cho phép các nhà nghiên cứu xem xét một cách thận trọng hơn những tính năng trị bệnh có khả năng phục hồi quy tắc của tế bào gây viêm sưng, đẩy nhanh quá trình mưng mủ ở tế bào hình cây và phục hồi sự cân bằng của tế bào T trợ giúp thích hợp, đó là những ứng cử viên thích hợp nhất để đương đầu với những vấn đề do DIT gây ra.
Tập trung vào các cuộc nghiên cứu chất hóa học trên thảo mộc và nấm, nhóm nghiên cứu Dietert đã lùng sục tài liệu và tìm thấy một số hóa chất đặc biệt đầy hứa hẹn khi đạt đến liều thích hợp. Những chất hoá học này được tìm thấy trong các loại nấm gồm: nấm Astragalus, nấm Echinacea (thảo dược có hình nón màu tím); nấm shiitake (đông cô); nấm reishi (linh chi); nấm maitake và nấm butter snake, hột é, nhân sâm Á Châu, nhựa của rể cây đậu tằm, khoai lang dại, rễ Sophoro và loại cỏ ba lá gốc ở Hy Lạp (tất cả những loại này cũng còn được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau). Trong bài báo, nhóm nghiên cứu Dieterts còn liệt kê các chất được tìm thấy có “ảnh hưởng nhất định nào đó” lên DIT cũng như một vài chất được phát hiện là làm cho sự hoạt động khác thường của hệ thống miễn dịch ngày càng tồi tệ hơn (kể cả cầ sa).
Rodney Dietert nói: “Chúng tôi hy vọng những phát hiện về sự hoạt động bất thường lên hệ thống miễn dịch lâu dài này từ nguy cơ thai nghén sẽ cung cấp thêm nguồn động viên cho cuộc nghiên cứu sắp tới. Hơn nữa, các nghiên cứu gia sẽ phải xem xét những loại thuốc này, những loại có khả năng điều chỉnh vấn đề về sự cân bằng miễn dịch và dễ bị viêm sưng do DIT gây ra hơn là đơn lẻ tập trung vào các triệu chứng bệnh cá thể.”
Ông đã lưu ý: những chỉ dẫn cho việc thử chất độc vừa mới đây đã được dự báo trước là rủi ro chỉ xảy ra ở người lớn, nhưng Sở bảo vệ môi trường sẽ thông báo là sẽ đưa ra những nguyên tắc chỉ đạo để tính đến sự nhạy cảm miễn dịch gia tăng ở bào thai và ở trẻ con.
Danh Phương