Trên thế giới không hiếm những tập tục lạ lùng, kỳ quái, thậm chí, ghê rợn trong đó, nhiều hủ tục nay bị xóa bỏ.
Geisha là một loại hình nghệ thuật giải trí truyền thống nổi tiếng của Nhật Bản. Từ geisha cũng được dùng để chỉ các cô gái hoạt động trong lĩnh vực này. Họ là những người vừa có tài ca múa nhạc lại vừa có khả năng trò chuyện, mua vui cho khách.
Hiện có nhiều hiểu lầm, đặc biệt ở bên ngoài Nhật Bản về bản chất của nghề geisha. Geisha là một loại hình biểu diễn tài nghệ văn hoá lành mạnh, cao cấp, hoàn toàn không phải hành vi bán dâm, dung tục, rẻ tiền.
Các nàng geisha chỉ "mãi nghệ, không mãi dâm".
Thời hoàng kim, Nhật Bản có rất nhiều geisha. Chẳng hạn, vào những năm 1900, số lượng geisa lên tới 25.000 người. Còn đầu những năm 1930, số lượng là 80.000 người. Hầu hết các geisha hoạt động ở Kyoto, cố đô của Nhật Bản. Ngày nay, số lượng giảm đáng kể. Hiện cả Nhật Bản chỉ còn lại tầm 10.000 geisha, trong đó, khoảng 100 người hoạt động ở Thủ đô Tokyo.
Các geisha thực thụ cũng ngày càng hiếm. Những nàng geisha hiện đại ngày nay không phải vào các nhà geisha từ khi còn bé và cũng không bị bán vào đây do nhà nghèo nữa. Thay vào đó, họ tự nguyện làm công việc này.
Tuy nhiên, các geisha vẫn phải tuân theo những quy tắc đào tạo như trước. Các cô gái trẻ muốn trở thành geisha phải học tất cả các môn nghệ thuật truyền thống của Nhật, từ nhảy múa, ca hát, âm nhạc cho đến vẽ tranh cũng như nhiều ngón nghề khác.
Trong lịch sử Trung Quốc cổ đại, hoạn quan xuất hiện từ thời Tây Chu. Có nhiều từ khác để chỉ hoạn quan, chẳng hạn, thái giám, công công, nội thị, trung quan, nội quan…
Đến giữa thời nhà Minh, quyền lực của các hoạn quan bắt đầu được củng cố khi họ được trọng dụng nhiều hơn. Do có quyền làm sứ giả, trông coi quân đội, coi xét quan lại, dân tình nên nhiều thái giám lộng quyền. Tính đến cuối triều Minh, số lượng hoạn quan lên tới 70.000 người.
Không riêng gì Trung Quốc, hoạn quan cũng xuất hiện trong nhiều nền văn hóa khác, đặc biệt là ở các xã hội phương Đông xưa, với các "chức năng" tương tự.
Ngoài ra, hoạn một bé trai trước tuổi dậy thì xuất hiện trong một số nền văn hóa còn là cách để giữ độ cao, trong và thanh, tạo ra sự đặc biệt trong giọng nói để sau này đứa trẻ có thể hát giọng nữ cao.
Tục đa thê là thước đo kinh tế đánh giá mức độ giàu có của người đàn ông ở một số nơi.
Những người đàn ông có địa vị xã hội cao hoặc giàu có thường lấy nhiều thê thiếp, hay còn được gọi là vợ lẽ. Địa vị của vợ lẽ luôn thấp hơn so với người vợ cả, hay còn gọi là chính thất. Do đó, con cái họ sinh ra cũng có danh phận thấp hơn so với anh em.
Bắt đầu thịnh hành ở các nước phương Tây từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 20, thách đấu tay đôi là hình thức thi đấu sử dụng các loại vũ khí nguy hiểm chết người của giới quý tộc, đặc biệt là ở Pháp. Từ thế kỷ 15 đến 18, các đấu sĩ thường sử dụng kiếm. Nhưng từ thế kỷ 18 trở đi, kiếm được thay bằng súng, loại vũ khí mà chỉ có giới quý tộc mới có khả năng sở hữu.
Một cảnh thách đấu tay đôi.
Sau khi một bên thách đấu, trận chiến được tổ chức để giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn cá nhân, hay khôi phục danh dự. Các đấu sĩ được quyền cử người đại diện ra thi đấu nếu họ muốn.
Trong một trận đấu tay đôi, các đấu sĩ thường không đặt mục tiêu hạ sát đối phương lên hàng đầu. Thay vào đó, họ chứng minh mình sẵn sàng mạo hiểm chính cuộc sống để rửa nhục, khôi phục danh dự cá nhân...
Mổ bụng tự sát hay còn gọi là Hara-Kiri là một nghi thức xưa của các võ sĩ đạo Nhật Bản. Đây là một phần quan trọng trong văn hóa võ sĩ đạo (bushido) nhưng hiện nay bị bãi bỏ.
Một lễ mổ bụng tự sát của một samurai.
Theo nghi thức này, một samurai sẽ tự mổ bụng tuẫn tiết khi bị "thất thủ" hoặc khi chủ nhân chết để tránh bị rơi vào tay quân thù, bị làm nhục hoặc để thể hiện lòng trung thành tuyệt đối của lãnh đạo.
Tuy nhiên, các samurai cũng có thể bị các lãnh chúa hoặc quân vương trong xã hội phong kiến Nhật Bản ra lệnh phải tự mổ bụng. Sau này, các samurai bị ô nhục hoặc phạm lỗi được phép tự mổ bụng thay vì bị hành quyết theo các cách thông thường.
Do mục đích chính của nghi thức này là bảo vệ danh dự, những ai không thuộc về giới samurai sẽ không bao giờ phải hay bị ra lệnh thực hiện nghi thức này. Các nữ samurai chỉ được thực hiện nghi thức này khi có chỉ thị.
Trước khi tự mổ bụng, samurai phải tắm rửa, mặc áo dài trắng, ăn bữa cuối cùng. Sau đó, dụng cụ thực hiện nghi thức tự mổ bụng được đặt trên một cái đĩa của samurai.
Trước khi tự sát, samurai sẽ viết một bài thơ giã biệt. Tiếp theo, họ cởi áo kimono, lấy thanh kiếm ngắn (wakizashi) hoặc con dao (tantō) và đâm vào bụng, cắt một đường từ trái sang phải.
Kết thúc nghi lễ, người samurai có thể nhờ người khác chém đầu (được gọi là kaishakunin). Người kaishakunin sẽ thực hiện một nhát chém gọn gàng, được gọi là daki-kubi, gần như làm đứt hẳn đầu của samurai khỏi cơ thể (chỉ để lại một dải thịt mỏng gắn đầu với thân thể).
Đây là nghi thức giết người để cúng tế thần linh hoặc các thế lực siêu nhiên. Tục lệ này diễn ra ở nhiều nền văn hóa cổ đại trên khắp thế giới; trong đó, nghi thức hiến tế ở những vùng khác nhau có những đặc điểm không giống nhau.
Maya và Aztec cổ đại là 2 nền văn hóa từng duy trì tục lệ này.
Các nạn nhân bị biến thành vật hiến tế, thường là tù binh, trẻ sơ sinh hoặc các trinh nữ, để làm vui lòng hoặc xoa dịu cơn giận của thần linh. Các hình thức hiến tế bao gồm: hỏa thiêu, chặt đầu hoặc chôn sống.
Hiện tục dùng người sống làm vật hiến tế bị xem là hành vi tội ác và bị cấm trên toàn thế giới. Tuy nhiên, người ta cho rằng, ở những khu vực xa xôi, hẻo lánh nhất của thế giới, một vài dân tộc có thể vẫn tiến hành nghi lễ tương tự.
Đây là hủ tục từng phổ biến ở Trung Quốc thời phong kiến cách đây khoảng 1.000 năm và chỉ áp dụng cho các cô gái trẻ. Xuất hiện từ đời nhà Đường, đến thế kỷ 12, tục bó chân trở thành “mốt” trong giới "quý tộc", đặc biệt dành riêng cho các kiều nữ thuộc các gia đình quyền quý, vương giả. Tuy nhiên, đến cuối đời Minh, hủ tục này lan rộng ra toàn xã hội và trở thành chuẩn mực của cái đẹp. Cô gái nào chân càng nhỏ, càng có nhiều cơ hội kén chồng danh giá.
Đôi bàn chân dị dạng vì hủ tục bó chân.
Do đó, thời kỳ này, các bé gái Trung Quốc từ 5 đến 7 tuổi phải bắt đầu nghi lễ bó chân khi xương còn mềm và dễ nắn. Bà và mẹ thường là những người buộc dải băng (thường dài 3m, rộng 5cm) quấn chân những cô con gái nhỏ của họ. Dải băng quấn càng chặt, cô gái càng có nhiều cơ hội sở hữu đôi chân đẹp sau này.
Trong những năm đầu bó chân, các cô gái sẽ phải chịu đựng những cơn đau đớn tột cùng và không thể đi lại được. Nếu không có người giúp đỡ, muốn di chuyển họ phải trườn hoặc bò. Những năm sau, gót chân bắt đầu chai cứng, vì trong suốt quá trình bó chân, các cô gái chỉ có thể di chuyển bằng gót chứ tuyệt đối không thể đi lại bằng bàn chân hoặc các đầu ngón chân. Quy trình làm đẹp kinh hoàng kết thúc khi những cô gái sở hữu đôi bàn chân hoàn hảo, thường có độ dài từ 7cm - 10cm.
Tự thiêu (sati) là một hủ tục của các tín đồ đạo Hindu. Theo đó, khi người chồng qua đời và được đem đi hỏa táng, góa phụ phải tự nhảy vào giàn thiêu theo chồng.
Nhiều góa phụ tín đồ đạo Hindu cũng phải tự thiêu theo chồng.
Hành động tự thiêu theo chồng được tuyên truyền là dựa trên sự tự nguyện nhưng thực tế, hầu hết các góa phụ bị ép phải thực hiện hủ tục rùng rợn. Người ta tin rằng, nếu góa phụ thực hiện lễ Sati, gia đình họ sẽ gặp may mắn trong 7 đời. Ngược lại, họ sẽ phải đối mặt với sự khinh bỉ, nguyền rủa của người thân và cộng đồng.
Có nhiều kiến giải về nguồn gốc hủ tục này. Một trong số đó cho rằng, sati nhằm ngăn chặn khả năng vợ ngoại tình, đầu độc chồng. Một giả thuyết khác cho rằng, sati bắt nguồn từ truyền thuyết về một hoàng hậu hay ghen. Bà này chấp nhận chết chung với nhà vua để tiếp tục giữ chồng ở thế giới bên kia. Hiện hủ tục này đã bị cấm ở Ấn Độ.
Sokushinbutsu là cách gọi các nhà sư tự ướp xác mình. Những nhà sư này, để tự ướp xác, phải trải qua một quá trình khổ luyện đau đớn.
Một xác tự ướp của nhà sư Nhật Bản.
Trước khi tiến hành quá trình ướp xác 3 năm, họ sẽ phải tuân thủ một chế độ ăn uống nghiêm ngặt. Bằng cách này, mỡ và một phần thịt của cơ thể các nhà sư, những thứ có thể thối rữa sau khi chết, hầu như teo hết.
Giai đoạn tiếp theo của quá trình ǎn kiêng còn khắc nghiệt hơn nữa. 3 năm tiếp theo, các nhà sư chỉ ǎn một chút vỏ cây hoặc rễ cây và bắt đầu uống một loại trà độc được chế từ nhựa cây Urushi. Việc này giúp làm mất các chất dịch trong cơ thể nhanh chóng. Tuy nhiên, quan trọng hơn là, chất độc trong trà sẽ giết chết tất cả các loại sinh vật có thể làm cơ thể thối rữa sau khi chết.
Cuối cùng, các nhà sư tự ướp xác sẽ tự nhốt mình trong một nhà mồ bằng đá không rộng hơn cơ thể là bao và ngồi thiền. Họ chỉ liên lạc với thế giới bên ngoài thông qua một ống thở và một chiếc chuông. Mỗi ngày, nhà sư sẽ rung chuông để báo rằng mình còn sống. Khi chuông không còn kêu nữa, có nghĩa là nhà sư đã chết và nhà mồ được bịt kín.
Người thân đứng xem lũ kền kền ăn xác người người quá cố.
"Ngôi mộ bầu trời" là một nghi thức tang lễ tại các tỉnh của Trung Quốc là Tây Tạng, Thanh Hải, và Mông Cổ.Đa số người Tây Tạng và Mông Cổ tin vào trường phái Kim Cương thừa của Phật giáo dạy con người về sự luân hồi của linh hồn. Theo trường phái này, khi con người chết không cần phải bảo vệ cơ thể vì xác chết như một tàu trống rỗng. Vì vậy người chết sẽ được băm nhỏ và làm thức ăn cho bầy kền kền. Đây được gọi là hình thức chôn cất trên bầu trời. Chỗ duy nhất họ không chạm dao vào là đầu mà chỉ để hở bộ não ra ngoài bởi đây là nơi chứa linh hồn và ý thức. Đây là một hủ tục rùng rợn từng tồn tại khá lâu ở Tây Tạng.
Các bộ phận cơ thể còn sót lại sẽ được đặt trong tháp một năm. Đàn ông và phụ nữ sẽ được đặt ở những nơi khác nhau.
Trước khi tiến hành nghi lễ, các tu sĩ lễ - được gọi là Lạt ma - tụng thần chú đi khắp cơ thể và vẩy bách hương. Cơ thể sau đó được một trong 2 nhà sư hoặc máy, cắt nhỏ thành từng miếng. Theo giáo lý Phật giáo, dùng máy cắt sẽ dễ dàng hơn đồng nghĩa với việc linh hồn người chết siêu thoát nhanh hơn.
Rất khó để hiểu được hết quá trình chôn cất bầu trời của người Tây Tạng bởi họ phản đối mạnh mẽ người đến xem chỉ vì tò mò. Nhưng họ cho biết, toàn bộ cơ thể sẽ làm thức ăn cho kền kền.
Sở dĩ người Tây Tạng hiến thịt người chết cho chim kền kền là vì họ xem loại chim này là “thần điểu”. Họ tin rằng thi thể được chim kền kền ăn hết là điềm lành, người chết sẽ nhanh chóng được siêu thoát. Hiện chính quyền Trung Quốc cũng cấm hủ tục này.