"Điều quan trọng là người ta không ngừng hỏi” - câu nói này của Albert Einstein được viết trên tấm thảm đỏ lớn tại cửa đi vào phòng hội thảo tại Viện bảo tàng Lịch sử Đức ở Berlin trong năm 2005 - năm được chọn làm “Năm Einstein” và “Năm vật lý” của thế giới. Nó thể hiện triết lý của Einstein đi tìm chân lý không mệt mỏi và cũng là kim chỉ nam suốt đời ông.
Hơn 50 năm sau, thế giới vẫn muốn nghe lại tiếng nói thật nhất, can đảm nhất của ông như một sự nhắc nhở cho nhân loại.
Người “mơ mộng"
Albert Einstein sinh ngày 14-3-1879 tại thành phố Ulm thuộc bang Baden-Wurttemberg của Đức, và mất ngày 18-4-1955 tại Princeton, Mỹ. Ông là con trai đầu của một gia đình gốc Do Thái đã định cư lâu đời ở vùng này. Gia đình Einstein không phải là ngoan đạo, đã được “hội nhập”, không còn sống với đạo truyền thống Do Thái, có tinh thần phóng khoáng.
Cậu bé chậm phát triển
Người ta kể cậu bé Einstein có một số đặc tính nổi bật không giống với các cậu bé thường, không phải là biểu hiện thiên tài mà ngược lại! Cậu sinh ra đã có cái đầu quá to khiến bố mẹ tưởng là quái thai, rồi lại “chậm phát triển”. Ba tuổi mà chưa nói được, gây lo lắng khiến bố mẹ phải đi tìm bác sĩ tư vấn. Chín tuổi cũng chưa nói năng thông thạo.
Einstein năm 15 tuổi |
Tự học là chìa khóa con đường khoa học của Einstein, xuất phát từ tinh thần độc lập của ông. Einstein có một cá tính nổi bật là không thích mọi sự gò bó, ép buộc; ông không thích kỷ luật nghiêm ngặt và cách học thuộc lòng trong nhà trường. Phổ lại là một nước có truyền thống quân sự và kỷ luật chặt chẽ nổi tiếng từ trường học đến đường phố.
Ông cũng ý thức sớm sự vô nghĩa của những gì người đời săn đuổi với sự tàn bạo. “Không có hoạt động nghiên cứu cái khách quan, cái mãi mãi không bao giờ đạt tới trong lĩnh vực nghệ thuật và nghiên cứu khoa học thì cuộc đời đối với tôi trống rỗng. Những mục đích tầm thường của sự phấn đấu của con người như chạy theo vật chất, thành công bề ngoài và sự xa xỉ đối với tôi từ những năm tuổi trẻ là đáng khinh” - Einstein kể.
Hai sự kiện gây ấn tượng mạnh và có ảnh hưởng lâu dài đối với cậu bé Einstein. Đó là năm cậu lên 4 hay 5 tuổi, khi được bố đưa cho một cái la bàn với cây kim của nó vẫn không đổi hướng mặc cho vị trí la bàn thay đổi thế nào. Einstein như chạm vào sự huyền bí của tạo hóa và có ấn tượng mãnh liệt. Năm lên 12, thêm một sự kiện quan trọng nữa xảy ra. Đó là khi Einstein nhận được quyển sách nhỏ về hình học Euclide từ Max Talmud. Cậu bé lại bị ấn tượng rất mạnh về tính chính xác, mạch lạc và rõ ràng của những định lý hình học được chứng minh theo cách suy diễn logic từ một ít tiền đề và định nghĩa. Nó giống như một kim tự tháp với đầu trên là một ít tiền đề (axiom) và phần còn lại là những hệ quả suy diễn từ chúng. Einstein nhìn nó như một loại kỳ quan của trí tuệ con người.
Tìm con đường cho riêng mình
Einstein sinh ra trong thập kỷ sau sự thống nhất đế chế Đức (1871), quốc gia trên đường trở thành cường quốc hàng đầu về công nghiệp ở châu Âu, và ông mất đúng một thập kỷ sau khi đế chế này bị giải thể (1945). Nước Đức cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 phát triển thành một người khổng lồ trong lòng châu Âu. Từ 1820-1920 đã có 9.000 sinh viên Mỹ ghi danh học.
Einstein lúc ở Aarau để học dự bị thi lại đại học |
Einstein bản tính là một người “nổi loạn”, không chịu khép mình vào những trật tự cố định. Ông sinh ra là để làm người tự do và chấp nhận mọi sự trả giá để được sống và tư duy tự do. Einstein không phải là sản phẩm của các lò đào tạo học trò xuất sắc, trường chuyên, của chế độ đào tạo bằng nhồi nhét, hay của bộ máy hàn lâm kiêu hãnh, lại càng không phải là thần đồng.
Ông đứng ngoài tất cả những thứ đó, là sản phẩm của tự học và óc tò mò vô hạn trước thiên nhiên. Ông đã để tư duy của mình bay bổng với đôi cánh mộng tưởng trong bầu trời tự do vô hạn của tạo hóa. Ông cho rằng không nên lấy hoạt động khoa học để làm phương tiện kiếm sống, để giữ cho mình được tự do. Đó cũng chính là con đường ông chọn sắp tới để bước vào đời.
Ở Đức cậu bị chê bai. Hiệu trưởng Trường trung học Gymnasium Luitpold Munich một ngày nọ đã kêu cậu đến và nói: “Einstein, cậu sẽ chẳng làm nên chuyện gì đâu” và bồi thêm để đuổi cậu khỏi trường: “Sự hiện diện của cậu đã làm mất đi sự tôn kính trong lớp học”.
Có lẽ do thái độ không ưa thích kỷ luật của cậu. Einstein không phải học tồi như huyền thoại lưu truyền. Einstein chấp nhận lời xua đuổi ấy, như chấp nhận sự thách thức của vua Phổ: “Ai không vừa ý, kẻ đó nên rũ sạch đất Đức dưới chân mình và hãy ra đi”.
Thăm thầy, nhưng thầy đã quên |
Ông tận hưởng những ngày tự do và bắt đầu tự nghiên cứu khoa học ở Milan. Ông rời trường học nhưng không rời khoa học. Mục tiêu của ông là vào học Trường đại học kỹ thuật ETH Zrich.
Trường này là trường ngoài nước Đức ra tốt nhất ở châu Âu (và hiện nay vẫn là trường tên tuổi thế giới) và không đòi hỏi bằng tú tài mà chỉ yêu cầu phải thi một kỳ khảo sát. Ông bắt đầu một cuộc sống tự lập và tự hoạch định tương lai cho mình. Thi rớt vào ĐH ETH Zrich, ông phải lui về Aarau, một thị trấn nhỏ gần Zrich, để học một năm dự bị và sau đó ra trường Aarau với điểm thủ khoa.
Khi tốt nghiệp cử nhân năm 1900, Einstein rất kỳ vọng vào một chân giảng nghiệm viên ở Đại học ETH Zrich để tiếp tục việc nghiên cứu khoa học. Trong khi những sinh viên tốt nghiệp khác đều được bổ nhiệm việc làm trong đại học, Einstein phải đi ra với “tay trắng” vì không giáo sư nào có thiện cảm với con người “lười biếng” này để cho một chức giảng nghiệm viên cả. Ông xin việc ở Đức và Hà Lan nhưng cũng không thành. Thất nghiệp, Einstein phải đi kèm trẻ để sống qua ngày.
Giữa năm 1901, một cái phao cứu hộ đã đến với ông. Do sự giới thiệu của gia đình một người bạn thân, Einstein được nhận vào làm “chuyên viên hạng ba” của Sở Bản quyền sáng chế liên bang Thụy Sĩ. Ông chỉ được làm thử việc, kéo dài cho đến năm 1904 mới được làm chính thức, và năm 1906 mới được lên hạng cấp hai.
Einstein đã bị đẩy ra ngoài bộ máy hàn lâm và đã có ý nghĩ bỏ giấc mơ hàn lâm đã ấp ủ của ông. Đó là hệ quả và cái giá phải trả của tính độc lập của con đường ông đang đi. Ông chẳng phải lười biếng như các thầy đã gán, mà chỉ làm một điều: theo đuổi những ý tưởng độc lập của mình, ông chỉ đi vào đại học để nghe những gì ông thật sự thấy bổ ích. Ông làm theo điều đã được đề cao như một trong những nguyên tắc của nền đại học Đức trăm năm qua: tự do học.
(Còn nữa)
Trần Xuân Xanh