Tàu ngầm Komsomolets mang theo những kỳ vọng của Liên xô để phá vỡ mọi kỷ lục, nhưng chính điều này đã khiến nó vượt quá giới hạn cho phép, để rồi thảm kịch xảy ra.
Trong suốt một thời gian dài, độ sâu dưới 600m của đại dương hầu như chỉ là điểm đến của các tàu lặn nghiên cứu sinh vật biển và một số tàu kỹ thuật cỡ nhỏ.
Tuy nhiên vào thời kỳ Chiến tranh Lạnh, với tham vọng chế tạo chiếc tàu ngầm quân sự lặn sâu nhất thế giới, Liên Xô đã cho ra đời tàu ngầm Komsomolets K-278, với khả năng chạm tới độ sâu 1.000m.
Siêu tàu ngầm titan lặn sâu nhất thế giới
Giai đoạn thiết kế của tàu bắt đầu từ năm 1966 và hoàn tất vào năm 1974.
K-278 Komsomolets là tàu ngầm quân sự của Nga duy nhất thuộc dự án 685 Plavnik, hay còn gọi là "Mike" theo một báo cáo của NATO.
Dự án 685 được tạo ra bởi phòng thiết kế Rubin Design nhằm đáp ứng đòi hỏi về một loại tàu ngầm tối tân có thể mang theo 6 ngư lôi và tên lửa dẫn đường mang đầu đạn thường hoặc hạt nhân.
Giai đoạn thiết kế của tàu bắt đầu từ năm 1966 và hoàn tất vào năm 1974. Tàu được đóng tại nhà máy của Sevmash ở Severodvinsk, hạ thủy năm 1983 và được đưa vào biên chế Hải quân Nga vào cuối tháng 12 trong cùng năm.
Về kích thước, tàu Komsomolets dài 117,5m, bề ngang 9m, choáng nước từ 4400 đến 5750 tấn khi nổi và 6400 đến 8000 tấn khi lặn.
Trên tàu được trang bị 1 lò phản ứng OK-650 b-3 công suất 190 MW.
Bên trong tàu có 7 khoang được gia cố, các khoang thứ 2 và 3 được bảo vệ bởi các vách ngăn phía trước và sau, chắc chắn hơn từ đó tạo ra một vùng an toàn trong trường hợp khẩn cấp và thậm chí thủy thủ đoàn có thể bỏ tàu nhờ một buồng thoát hiểm đặt trong tháp tàu.
Trên tàu được trang bị 1 lò phản ứng OK-650 b-3 công suất 190 MW, 2 turbine hơi 45000 mã lực, cùng nhiều công nghệ hiện đại, cho phép khả năng lặn sâu đến hơn 1 cây số, vượt qua mọi loại tàu ngầm lúc bấy giờ.
Đúng như mục tiêu thiết kế, K-278 Komsomolets có 6 ống phóng ngư lôi 533 mm, có thể phóng các loại ngư lôi Type 53-65, VA-111 Shkval và tên lửa chống ngầm SS-N-15 Starfish. Mặc dù tàu K-278 ban đầu được chế tạo để thử nghiệm công nghệ nhưng nó sau cùng được vũ trang và sẵn sàng tác chiến vào năm 1988.
Với đặc tính nhẹ và bền, titan mang lại nhiều lợi thế cho tàu ngầm hơn so với kết cấu làm từ thép tiêu chuẩn, mà dễ thấy nhất là tốc độ, khi nó có thể di chuyển ở tốc độ 14 knot (26 km/h) trên mặt và 26 đến 30 knot (48 - 56 km/h) khi lặn.
Ngoài ra, kim loại này cũng có khả năng chống ăn mòn và không có từ tính, khiến tàu ngầm khó bị phát hiện bằng máy dò từ tính dị thường (MAD), được sử dụng trên các tàu hải quân.
Tàu Komsomolets được xem là một đột phá vì gần như "bất khả xâm phạm" ở độ sâu 1.000m, do đa số ngư lôi, điển hình như Mark 48 của Mỹ chỉ có độ sâu hoạt động tối đa là 800m.
Thảm kịch khiến 42 thủy thủ thiệt mạng
Vào ngày 7/4/1989, khi đang hoạt động ở độ sâu 386m, tàu Komsomolets gặp sự cố ở giữa biển Na Uy.
Theo các tài liệu ghi lại, một ngọn lửa bùng lên ở buồng thứ 7, nằm ở gần đuôi con tàu.
Nguyên nhân gây ra sự cố được xem là một lỗi kỹ thuật. Điều trùng hợp là những thủy thủ đoàn trên tàu là nhóm thứ 2 mới được huấn luyện để vận hành tàu. Hơn nữa, do nguồn gốc của tàu là tàu thử nghiệm, nên nó bị thiếu đi một số bộ phận kiểm soát các hư hỏng.
Ngọn lửa làm hỏng van cung cấp không khí, khiến mọi nỗ lực dập lửa thất bại. Hệ quả là lò phản ứng trên tàu bị ngừng hoạt động, nhưng hệ thống nổi được kích hoạt để đưa tàu ngầm trồi lên.
Ảnh mô tả cho thấy viên nang thoát hiểm của tàu K-278 Komsomolets được sử dụng khi cần thiết. (Ảnh: Hisutton)
Khi ấy, tàu trưởng Evgeny Vanin đã phát tín hiệu cầu cứu tới Hải quân Liên Xô, nhưng do tín hiệu không trọn vẹn, nên những người trên bờ không biết được tình trạng nguy hiểm của tàu.
Trong khi đó, đám cháy dữ dội tới mức lớp cao su chống vang ở lớp vỏ bên ngoài bong ra do nóng.
Sau vài giờ chiến đấu với ngọn lửa, tàu Komsomolets nổi được lên mặt nước. Các thủy thủ vui sướng trèo lên boong, và chờ máy bay cứu hộ tới nơi. Thế nhưng do nhiệt độ nước ở biển Na Uy lúc này gần đóng băng (~ 2 độ C), đã khiến đa số thủy thủ chết vì lạnh.
Lúc ấy, thuyền trưởng Vanin cùng 4 thủy thủ khác đang quay trở lại bên trong tàu Komsomolets để tìm kiếm những nạn nhân còn sống sót khác. Tuy nhiên, đám cháy dữ dội khiến Vanin cùng những đội cứu hộ không thể tiến vào sâu hơn.
Khi họ đang tìm được quay trở ra, thì con tàu bất ngờ chúi mũi xuống và chìm xuống đáy biển. Những người bên trong tàu không kịp thoát ra bên ngoài đã thiệt mạng.
Sau khoảng một tiếng đồng hồ, các thuyền cứu hộ mới tới nơi, và cứu được tổng số 30 người. Tuy nhiên trong số những người được cứu, một vài trường hợp sau đó đã tử thương trên đường cấp cứu. Như vậy tính ra trong tổng số 69 thủy thủ ban đầu trên tàu ngầm khi xảy ra thảm họa, có 42 người chết, bao gồm tàu trưởng Vanin.
Phóng xạ vẫn rò rỉ đến ngày nay
Xác con tàu chìm dưới độ sâu 1.600m. (Ảnh: Hisutton)
Số phận con tàu Komsomolets - "quái vật" từng được coi là niềm tự hào của Liên Xô, cũng không mấy khá khẩm hơn, khi chìm xuống độ sâu 1.600m cùng với lò phản ứng hạt nhân và 2 quả ngư lôi Shkval gắn đầu đạn hạt nhân.
Trong giai đoạn từ năm 1989 đến 1998, Nga đã tiến hành 7 chuyến đi để kiểm tra tình trạng của con tàu, và kết luận rằng nó bị hư hại nghiêm trọng, nhưng các ngư lôi và lò phản ứng hạt nhân trên tàu không gây nguy hại đáng kể cho môi trường. Dẫu vậy, thảm họa hạt nhân vẫn có thể diễn ra nếu thân tàu bị ăn mòn.
Tính đến năm 2009, nhà chức trách Nga đã khảo sát, kiểm tra tàu Komsomolets hơn 70 lần, nhằm ngăn tình trạng rò rỉ phóng xạ và hàn các ống ngư lôi. Họ cũng nhiều lần lên kế hoạch trục vớt tàu Komsomolets, nhưng bất thành.
Rốt cuộc, Nga đã phải từ bỏ ý định này khi các cuộc khảo sát cho thấy việc trục vớt tàu có nguy cơ xảy ra thảm họa hạt nhân là quá lớn.
Họ buộc dùng các biện pháp đặc biệt để bao kín con tàu, biến nó thành một "nấm mồ" titan khổng lồ nằm lại ở độ sâu 1.600m dưới đáy biển Na Uy cùng các thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng trong thảm kịch.