Bạn có thói quen khi đi ngủ phải để đèn sáng không? Hay thường xuyên bị mất ngủ do bị ám ảnh, sợ hãi bởi bóng đêm?
Theo Martin Antony, giáo sư tâm lý học tại Đại học Toronto (Canada), nỗi sợ bóng tối xuất hiện một cách rất tự nhiên trong suy nghĩ của chúng ta, giống như thể đã được lập trình sẵn. Những nỗi sợ như sợ độ cao, nhện, rắn và bóng tối bắt nguồn từ những gì có thể gây nguy hiểm cho tổ tiên của chúng ta.
Không giống các loài khác, con người phụ thuộc rất lớn vào thị giác để tồn tại. Trong bóng tối, thị giác của chúng ta cũng không còn tác dụng và chúng ta không thể phát hiện ai hoặc những gì xung quanh mình.
Nếu có những con thú săn mồi hoặc mối nguy hiểm ẩn trong bóng tối, con người có thể không thể nhìn thấy và phát hiện chúng.
Trải qua quá trình tiến hóa và thông qua chọn lọc tự nhiên, con người dần "ghi nhớ" những nỗi sợ này.
Đó không phải vấn đề tâm lý mà trở thành một đặc tính được hình thành trong quá trình sinh tồn, một quy tắc cần phải ghi nhớ để tồn tại: bóng tối tạo điều kiện thuận lợi cho những kẻ săn mồi rình rập, vì vậy cần phải tránh nó.
Các chuyên gia cho rằng chứng sợ bóng tối có trong mã di truyền của loài người: tổ tiên chúng ta sợ bóng đêm, do sợ bị ăn thịt bởi các loài động vật ăn thịt sống về đêm. 1 nguyên nhân khác được ông Sigmund Freud (bác sĩ thần kinh và tâm lý người Áo) lý giải rằng chứng sợ hãi bóng tối của con người có liên quan đến việc sợ bị chia cách với Mẹ hoặc lo lắng khi Mẹ vắng mặt.
Tổ tiên ban đầu của loài người, trước khi có những thiết bị mang tính đột phá như ngọn lửa, chỉ là một phần cấp thấp của chuỗi thức ăn, và cũng có một số lượng lớn các loài thiên địch, chẳng hạn như Dinofelis, báo gấm, cằm khổng lồ. hổ, linh cẩu báo và linh cẩu đốm trong hang.
Trước khi vượn người tiến hóa thành người, vượn người sinh sống trong rừng có thể không sợ bóng tối. Nhưng tổ tiên loài người đã rời bỏ “vùng an toàn” và đi đến đồng cỏ, bắt đầu những bước đi thẳng và đã phải thích nghi với một môi trường sống hoàn toàn khác với rừng cây. Có nhiều kẻ săn mồi hung dữ hơn ở đây, và chúng có tầm nhìn ban đêm rất tốt. Trong trường hợp này, những tổ tiên loài người không sợ bóng tối và dám đi trong bóng tối đều bị ăn thịt bởi những kẻ săn mồi này.
Những kẻ thù tự nhiên này đều là những sinh vật sống về đêm, đặc biệt một số loài mèo lớn trong số đó lại là mối đe dọa lớn nhất đối với tổ tiên chúng ta, một số loài thậm chí còn tiến hóa hàm răng đặc biệt để phá vỡ hộp sọ cứng của các loài linh trưởng.
Thực ra, không chỉ sợ bóng tối mà việc sợ những thứ khác cũng nằm trong chọn lọc tự nhiên, giúp chúng ta tránh xa những thứ nguy hiểm, để có thêm xác suất sống sót. Tất cả chúng ta đều là hậu duệ của những người chiến thắng trong quá trình tiến hóa.
Thêm nữa thị lực của loài người không tiến hóa để có thể nhìn rõ vào ban đêm. Khi con người đối mặt với bóng tối, họ luôn cảm thấy có một con quái vật ẩn bên trong bóng tối đó, sẵn sàng xông vào ăn thịt mình bất cứ lúc nào - đây chính là cuộc sống hàng ngày của tổ tiên loài người trong hai triệu năm.
Sự chọn lọc tự nhiên tàn khốc này kéo dài từ thời kỳ của người Australopithecus cho đến trước khi người Homo sapiens xuất hiện. Trong những tàn tích của Homo erectus, một số lượng lớn xương bị mất má và đầy dấu răng linh cẩu cũng như các loài động vật họ mèo lớn được khai quật. Khoảng thời gian dài sàng lọc tự nhiên như vậy đủ để loại bỏ những cá nhân không nhạy cảm với hầu hết những cá thể có thể sống sót đều là những kẻ “nhát gan”, không đủ dũng cảm để lang thang vào ban đêm.
Thế nhưng bóng tối có thật sự đáng sợ không? Hay nó vẫn có ích lợi cho con người? Trong infographic này, chúng ta sẽ tìm hiểu về chứng sợ bóng tối của con người cũng như nguyên nhân dẫn đến và cách chế ngự nỗi sợ đó.
Khi nào cần can thiệp y tế?
Cha mẹ cần theo dõi nỗi sợ hãi của con mình và để ý xem nó có ảnh hưởng đến các hoạt động bình thường hoặc sức khỏe của trẻ hay không. Khi một nỗi sợ hãi cản trở cuộc sống hằng ngày, ảnh hưởng đến các mối quan hệ, học tập và sinh hoạt chung thì rất có thể có nhiều nguyên nhân hơn những nguyên nhân đã nêu trên.
Nếu nỗi lo lắng ở trong bóng tối không thể kiểm soát được trong sáu tháng trở lên, cần xem xét các lựa chọn điều trị như thư giãn, thiền định để giảm các triệu chứng lo âu hoặc liên hệ với bác sĩ hoặc nhà tâm lý học để thảo luận về các phương pháp điều trị.