Cả gia đình ngắm em bé mới sinh. Bỗng ai đó nói: “Cậu bé có đôi mắt của mẹ”, người khác tiếp lời: “Hãy nhìn đôi chân này - cậu bé sẽ thành một cầu thủ giống bố”. Nhưng theo các nhà khoa học, rất nhiều thứ không được ấn định ngay khi thụ thai.
Bé có thể có đôi mắt đẹp của mẹ, đôi chân khỏe của cha nhưng trí tuệ, tài năng và bệnh tật lại do lối sống của bé quyết định
Gene có “công tắc”
Khi trẻ lớn lên, những biểu hiện của sự thông minh, khả năng âm nhạc hay thể thao sẽ được cho là có liên quan với những thành viên gia đình thông minh, giỏi giang trong các lĩnh vực khác. Vậy còn những tài năng chẳng giống bất kỳ người thân, họ hàng nào? Chúng ta mắc các bệnh như tiểu đường hay alzheimer do đâu? Liệu có phải vui vẻ hay buồn bã là bản tính đã ăn vào máu rồi? Tất cả hẳn không thể chỉ do yếu tố gene quyết định.
Vậy còn gì khác không? Một trong số những phát hiện cơ bản đáng ngạc nhiên nhất trong nghiên cứu về gene đó là: khi sự thụ thai thành công, mọi thứ không phải được “sắp đặt” sẵn như các quân bài đã được chia cho người chơi. Thay vào đó, hầu hết gene đều có thể điều khiển theo kiểu công tắc.
Việc điều khiển những công tắc này sẽ khiến nó “bật” hay “tắt” hẳn (trở thành gene trội hay gene lặn). Và "vật thể" điều khiển những nút tắt bật này có thể bị tác động bởi mọi hành vi của chúng ta, từ việc chúng ta được cha mẹ cho ăn gì cho đến chúng ta đã trải qua bao nhiêu stress, căng thẳng.
Thiên tài trong tất cả chúng ta
Một trong những điều thú vị nhất của phát hiện mới này là năng lực trí tuệ tích lũy do gene rất ít.
Cuốn sách “Thiên tài trong tất cả chúng ta” cho thấy rằng chúng ta còn quá xa để giải thích các khả năng trí tuệ như IQ hay khả năng âm nhạc đơn giản là do có những gene ưu việt đó.
“Tất nhiên, điều này không nói lên rằng gene không đóng vai trò quan trọng. Nhưng nghiên cứu cho thấy hầu hết chúng ta đều không tiếp cận khai mở khả năng thực sự của mình, là sự thông minh hay khả năng chơi thể thao…, cho đến khi chúng ta dành thời gian và công sức cho nó”, David Shenk cho biết.
Thông điệp của ông là cha mẹ hãy thể hiện tình yêu với trẻ bằng hành động thiết thực. David tin rằng, gia đình, trường học và xã hội nên khuyến khích trẻ nhiều hơn để trẻ phát huy khả năng của mình hơn nữa.
“Chỉ số IQ có thể thay đổi nếu con người được khuyến khích đúng”, ông nhấn mạnh.
Vậy những gì có thể thúc đẩy gene đi đúng hướng hay chệch đường?
Cũng như các hình thức tích cực và tiêu chực trong giảng dạy, những thứ có thể tác động tới gene là chế độ ăn, luyện tập, căng thẳng, thuốc lá, thuốc trừ sâu và các hóa chất. Như vậy gene không chỉ chịu tác động của trí não mà còn chịu ảnh hưởng bởi lối sống và hành vi. Vì thế, chúng ta có thể “bật” hay “tắt” nhưng gene liên quan với béo phì và bệnh tật.
Ví dụ, axit béo omega-3 tìm thấy trong dầu cá có thể ảnh hưởng tới hơn 100 gene; trong khi một chế độ ăn nhiều chất bột đường lại “khởi động” những gene liên quan với viêm nhiễm, theo một nghiên cứu về chế độ ăn nên có nhiều protein và chất béo hơn.
Lối sống có thể ảnh hưởng tới các gene liên quan với bệnh Alzheimer. Một trong những bí ẩn lớn nhất đối với các nhà khoa học là tại sao người ta có những mảng bám và sự rối loạn trong não bộ, những dấu hiệu cho thấy bệnh tật, lại chưa bao giờ chịu ảnh hưởng của bất kỳ xúc cảm hay yếu tố tinh thần nào?
TS Daivd Bennett, giám đốc TT Alzheimer ở TT Y tế ĐH Rush (Mỹ) nghĩ rằng ông đã tìm ra câu trả lời: Ông đang nghiên cứu gene trên tế bào não bộ của những người đã chết mà khi khám nghiệm, não bộ chứa đầy các mảng bám và lộn xộn. “Chúng tôi phát hiện ra rằng những người không bị các triệu chứng alzheimer có 1 điểm khác trong việc “bật” công tắc những gene chủ chốt. Và chúng tôi còn tìm thấy một số thứ khác. Hầu hết những người không có triệu chứng đều giữ được sự lanh lợi và hoạt bát của trí não."
Có thể đúng là sự phát triển của các mảng bám và các rối loạn phụ thuộc vào gene nhưng các triệu chứng như mất trí nhớ, lo lắng do alzheimer thì lại phụ thuộc vào kinh nghiệm sống và cái này chính là sự điều chỉnh gene.
Kinh nghiệm không phải là phương pháp chữa bệnh nhưng nó giải thích tại sao lối sống lại có tác động.
Vậy cái gì “bật” - “tắt” “công tắc” gene?
Các nhà khoa học từ lâu đã biết rằng phải có một cái gì đó tác động tới gene, “bật” hay “tắt” nó và đó là cơ chế di truyền biểu sinh (những thay đổi trong biểu hiện của gene không liên quan đến biến đổi gene gốc nhưng vẫn có thể được di truyền sang các thế hệ tiếp theo).
Cơ chế di truyền biểu sinh này đặc biệt mạnh trong giai đoạn thai nhi phát triển. Ngay sau khi tinh trùng gặp trứng, các tế bào phôi thai đã phát triển nhanh chóng thành hàng trăm loại tế bào, kiến tạo nên cơ thể. Cơ chế di truyền biểu sinh đảm bảo rằng chỉ những gene cần cho mỗi loại tế bào mới được hoạt động.
Theo TS Jonathan Mill, Viện nghiên cứu Tâm thần học London, gene dễ bị tổn thương nhất ở thời điểm trước và sau sinh. “Các nghiên cứu trên động vật cho thấy những bà mẹ tiếp xúc quá nhiều với chất cồn, căng thẳng, khói thuốc và chế độ dinh dưỡng kém trong thời điểm mang thai và sinh nở sẽ sinh những đứa con có cơ chế di truyền biểu sinh làm thay đổi gene trong não bộ (những gene gây bệnh vốn “lặn” lại trở thành “trội”). Điều này sẽ khiến đứa trẻ có nguy cơ mắc các rối loạn như chứng tăng động giảm chú ý (ADHD), trầm cảm và dễ nghiện ngập hơn”, TS Mill cho biết.
Những phát hiện này sẽ giúp việc tầm soát và điều chỉnh các thay đổi của cơ chế di truyền biểu sinh thông qua các phương pháp y học. Bệnh đầu tiên được hưởng lợi là ung thư. “Một số loại u ác tính có thể chứa những thay đổi tiêu cực trong cơ chế di truyền biểu sinh. Và ý tưởng mới là sẽ thay đổi chúng theo hướng tích cực bằng các loại thuốc. Ví như những gene là làm nhiệm vụ khử tế bào ác tính sẽ thường bị “tắt” khiến các tế bào ác tính tăng sinh. Và sẽ có những loại thuốc “kích thích” các gene này “khởi động””.
Đáng chú ý nhất, sự ảnh hưởng mạnh nhất của cơ chế di truyền biểu sinh là tác động lên thế hệ kế tiếp. Những gene mà bạn nhấn nút “tắt” đi bằng những căng thẳng, bằng tình yêu của người mẹ và chế độ ăn ít tinh bột-đường…. đều có thể ảnh hưởng đến trẻ.
Năm ngoái, các nhà nghiên cứu ở trường ĐH Massachusetts cho biết cho chuột đồ chơi và sự tập trung sẽ cải thiện được trí nhớ. Khi những con chuột này giao phối với những con chuột được sống trong môi trường sống phong phú thì con cái của chúng cũng thông minh hơn.