Theo nghiên cứu mới nhất của các nhà khoa học, Akita, Saluki, Alaska... là những giống chó xuất hiện trên trái đất sớm nhất.
Chú chó với bí danh là “Major” được coi là ví dụ đầu tiên được biết đến của giống chó hiện đại. Mô tả về chú chó này xuất hiện trên một tạp chí năm 1965 dưới thời Victoria có tên là The Field.
Chú chó có bí danh "Major"
Đây được coi là giống chó sớm nhất được báo cáo đầy đủ cả về giải phẫu và phả hệ. Hiện nay, “Major” đang là đối tượng nghiên cứu của Michael Worboys, Giám đốc trung tâm Khoa học lịch sử của trường Đại học Manchester. Worboy và đồng nghiệp của ông đã tìm kiếm các thông tin liên quan tới “Major” trong khi chuẩn bị xây dựng một bảo tàng dành riêng cho loài chó.
Dấu vết đầu tiên của loài chó nuôi trong nhà được tìm thấy khoảng 31.700 năm về trước. “Sự khác biệt đáng kể nhất giữa giống chó cổ xưa và hiện đại là kích thước của hàm răng”, nhà cổ sinh vật học Mietje Germonpre nói. Theo những gì tìm thấy, giống chó cổ xưa có hàm răng kích thước rất lớn.
Di chỉ khảo cổ học của loài chó cổ đại cho thấy chúng có nhiều nét tương đồng với loài husky Siberia, nhưng kích thước lớn hơn. Ngày nay, giống chó husky Siberia, Samoyed và Alaska có rất nhiều điểm chung với nhau.
Các giống chó xuất hiện sớm nhất trên trái đất, chủ yếu là các giống xuất hiện ở nước Anh, được trưng bày trong bảo tàng Đại học Manchester của Worboy và đồng nghiệp, với tên gọi “Nước Anh và các giống chó đặc trưng”.
Một nhóm nghiên cứu khác của Heidi Parker tại Viện nghiên cứu Gene người quốc gia, sử dụng ADN để phân tích mối quan hệ giữa gene và số lượng các giống chó được tạo ra. Một loại chó cổ xưa là giống chó săn Afghan, có nguồn gốc từ Trung Đông. Đây là một trong những giống chó lâu đời nhất còn tồn tại đến ngày nay, được dùng với mục đích chủ yếu để săn bắn thỏ và linh dương.
Parker cũng tìm ra bằng chứng rằng Akita là một giống chó lâu đời. Những chú chó Akita có nguồn gốc từ châu Á, mang gene tương tự như loài chó chow chow. Thế nhưng, những tính trạng trội lại không hề xuất hiện ở giống chó Akita khi chúng mới xuất hiện. “Những chú chó Akita đầu tiên xuất hiện vào năm 1859, không hề giống chút nào với giống Akita hiện tại, và được nuôi phục vụ cho mục đích săn bắn”.
Loài chó ít lông Saluki đến từ Iran, nơi tổ tiên của chúng từng sống gần những người nông dân đầu tiên của vùng đất Lưỡi liềm màu mỡ. Loài chó ở vùng đất này, rất có thể vì thế đã tiến hóa khả năng ăn các thức ăn giàu tinh bột từ khoảng 12.000 năm trước.
“Các nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng tổ tiên của loài chó hiếm có khả năng tiêu hóa các thức ăn giàu tinh bột”, Erik Axelsson - Đại học Uppsala cho biết. “Điều đó chỉ ra rằng loài chó thuần chủng rất có thể liên quan tới nền văn minh lúa nước. Nhiều khả năng rằng tổ tiên của saluki sống gần những nơi có nông nghiệp phát triển sớm, như vùng Lưỡi liềm màu mỡ và Trung Quốc”.
Ở Mỹ, Alaska là loài chó lâu đời nhất được con người nuôi. Các nghiên cứu ADN cho thấy chúng có nguồn gene tương tự với loài husky Siberia. Chó Alaska có ngoại hình to lớn và sức khỏe tốt, thường được dùng để kéo xe trượt, vận chuyển hàng hóa và nhiều công việc khác.
Loài chó Basenji là "một giống chó cổ xưa gốc gác ở châu Phi”, trong khi “Major” là giống chó đầu tiên được nghiên cứu và ghi chép lại trong lịch sử. Việc Baseji là giống chó đầu tiên được gây giống bởi con người vẫn còn đang gây nhiều tranh cãi. Cho dù loài chó này mang các đặc điểm của vùng Trung Phi, các nhà khảo cổ học vẫn tin rằng tổ tiên của chúng là loài sói đến từ Đông Á.
Ở Trung Quốc, loài chó chow chow được gọi thân mật là Songshi Quan, có nghĩa “chú chó sư tử”. Đây là loài có gene giống như của loài Akita, cũng có nguồn gốc từ châu Á, nhưng các nghiên cứu chỉ ra rằng loài chó chow chow này ra đời sớm hơn.
Một trong bốn loại chó châu Á lâu đời, là loại Shar-pei có tổ tiên là loài chó sói, và cũng là loài xuất hiện sớm nhất ở châu Á. Shar-pei nổi tiếng vì những nếp nhăn và lưỡi màu xanh đen. Các nhà khoa học cho rằng có thể đột biến gene đã tạo ra các nếp nhăn trên da của loại chó này, một đặc điểm gần giống như da người.