Chúng xảy ra xung quanh chúng ta, nhưng ít ai để ý tới.
Một người sẽ dễ được yêu mến hơn nếu họ cho thấy họ vẫn có những điểm không hoàn hảo.
Có lẽ đây là hiệu ứng tâm lý thú vị nhất, mà ai cũng từng trải qua, dù có nhận thức được nó hay không. Hãy tượng tượng rằng bạn đang phải lòng một cô nàng, có vẻ là người tài giỏi, tốt bụng và duyên dáng. Tình cờ bạn thấy cô ấy vấp ngã trên đường. Vì nhiều lý do, cảm xúc mà bạn dành cho nàng sẽ tăng lên, và bạn thấy rằng mình thậm chí bị thu hút hơn vì sự vụng về ấy.
Trong các lĩnh vực thể thao, kinh doanh và chính trị, hiện tượng tâm lý này được gọi là hiệu ứng Pratfall, được phân tích và đặt tên bởi nhà nghiên cứu Elliot Aronson năm 1996. Nghiên cứu cho thấy rằng chúng ta có khuynh hướng thích những người không hoàn hảo, những người mắc lỗi và biết nhận lỗi. Tuy không đúng trong tất cả mọi trường hợp, ví dụ nam giới sẽ bị thu hút trước những cô nàng vụng về hơn là chiều ngược lại, nguyên lý cơ bản ở đây là là một người sẽ dễ được yêu mến hơn nếu họ cho thấy họ vẫn có những điểm không hoàn hảo.
Hiệu ứng này đã thay đổi những suy nghĩ thông thường về sự gia tăng kích thước quần thể theo sinh học thông thường.
Hiệu ứng Allee được phát biểu là tốc độ tăng kích thước của một quần thể tỉ lệ với số lượng cá thể của của quần thể đó. Nói cách khác, những con cái sẽ sinh nhiều hơn khi mật độ dân số cao hơn. Hiệu ứng này được đặt tên theo tên của nhà động vật học người Mỹ Walter Clyde Allee. Hiệu ứng này đã thay đổi những suy nghĩ thông thường về sự gia tăng kích thước quần thể theo sinh học thông thường.
Tại thời điểm cuộc nghiên cứu diễn ra, mọi người vẫn tin rằng một loài sẽ phát triển thịnh vượng hơn tại một mức dân số thấp hơn, vì nguồn thức ăn khi ấy sẽ trở nên dồi dào hơn. Tuy nhiên, Allee đã chứng minh rằng khi dân số giảm sẽ khiến khả năng bảo vệ bầy đàn cũng theo đó mà giảm. Tức là, một nhóm càng đông thì sẽ càng phát triển nhanh, ở một giai đoạn nào đó.
Hiệu ứng khán giả nói đến sự ảnh hưởng của khán giả gây ra lên người biểu diễn.
Hiệu ứng khán giả nói đến sự ảnh hưởng của khán giả gây ra lên người biểu diễn. Hiện tượng này bắt đầu được nghiên cứu từ những năm 1930, và được đưa ra trong 2 trường hợp: một số người sẽ càng tự tin khi nhiều người theo dõi, trong khi một số người khác sẽ bị stress và biểu diễn tệ hơn nhiều so với khả năng thực của họ.
Năm 1965, nhà tâm lý học Ribert Zajonc đưa ra giả thiết rằng thuyết động lực có thể giải thích cho hiệu ứng khán giả. Zajonc cho rằng yếu tố quyết định việc một đám đông gây ra ảnh hưởng tiêu cực hay tích cực lên người biểu diễn phụ thuộc vào “độ dễ” của tiết mục đó. Nếu người biểu diễn tin rằng cô ấy/ anh ấy sẽ thành công, thì sự cổ vũ của khán giả sẽ tiếp thêm tự tin để hoàn thành phần biểu diễn và ngược lại, nếu ngay từ đầu đã mất tự tin thì sự cuồng nhiệt của khán giả sẽ càng làm cô ấy mất bình tĩnh.
Nếu bạn vung những giọt nước nhỏ lên một cái chảo nóng, chúng chuyển động loạn xạ trên mặt chảo.
Được đặt tên theo một bác sĩ người Đức Johann Gottlob Leidenfrost vào năm 1796, hiệu ứng Leidenfrost là hiện tượng vật chất xảy ra khi chất lỏng tiếp xúc với một mặt phẳng nóng hơn nhiệt độ sôi của nó. Hội đủ những điều kiện này, chất lỏng tạo ra một lớp hơi bảo vệ xung quanh nó để chống lại hiện tượng sôi lên nhanh chóng. Chính vì thế, nếu bạn vung những giọt nước nhỏ lên một cái chảo nóng, chúng chuyển động loạn xạ trên mặt chảo. Trong trường hợp trên, nước sẽ sôi và bốc hơi chậm hơn rất nhiều nếu nhiệt độ của chảo nằm giữa nhiệt độ sôi và điểm Leidenfrost.
Hiệu ứng này bản chất là một kiểu tiên đoán về sự tự hài lòng với bản thân.
Hiệu ứng này được phát biểu là: mức độ mong đợi có xu hướng tương ứng với kết quả biểu diễn. Tất nhiên, điều này không hoàn toàn đúng trong mọi trường hợp, nhưng theo nghiên cứu về các hiệu ứng tâm lý, nó chiếm đa số. Cái tên Pygmalion được lấy từ bộ phim “My Fair Lady”, còn được gọi là hiệu ứng Rosenthal. Hiệu ứng này bản chất là một kiểu tiên đoán về sự tự hài lòng với bản thân.
Sự ảnh hưởng của Pygmalion được tìm hiểu rất nhiều trong những lĩnh vực thể thao, kinh doanh và đặc biệt là trong giáo dục. Trong kinh doanh, hiệu ứng này được kiểm nghiệm khi các nhà quản lý nhận được kết quả dựa trên những mong đợi của họ đối với nhân viên. Tương tự vậy, cuộc nghiên cứu của Robert Rosenthal và Lenore Jacobson về ảnh hưởng Pygmalion trong lớp học cho thấy: khi giáo viên trông đợi những kết quả cao từ học sinh thì những học sinh này thường không khiến họ thất vọng.
Hiệu ứng này lần đầu được phát hiện bởi một nhà động vật học người Anh Hilda Bruce.
Trong thời gian mang thai, con cái thuộc các loài gặm nhấm thường tự phá hủy cái thai của mình khi phát hiện ra mùi của một con đực lạ. Hiệu ứng này lần đầu được phát hiện bởi một nhà động vật học người Anh Hilda Bruce, khi ông quan sát một số loài chuột đồng, khỉ gelada và thậm chí cả sư tử. Nghi ngờ việc thực hiện nghiên cứu trên những loài động vật bị nhốt trong chuồng có thể dẫn đến kết quả sai, nhà nghiên cứu Eila Roberts tại đại học Michigan đã tiến hành nghiên cứu trong thế giới hoang dã. Nhưng cả hai trường hợp đều dẫn đến cùng một kết quả: tại sao một con thú mẹ có thể giết chết con mình?
Roberts dành 5 năm để nghiên cứu những con gelada ở Ethiophia, và thu thập dữ liệu từ 110 con cái trong 21 nhóm khác nhau. Sau khi phân tích những mẫu hormon liên quan đến việc mang thai, Roberts phát hiện ra rằng trong những nhóm có con gelada đực đầu đàn, rất nhiều con cái sẽ tự phá thai từ rất sớm. Những nhóm không có con đực nắm quyền có tỉ lệ sinh cao hơn. Câu trả lời là những con đực có khuynh hướng giết chết những con gelada sơ sinh, bởi con cái chỉ tiếp tục sinh sản sau khi nó không còn phải nuôi những con nhỏ nữa, và những con đực trở nên mất kiên nhẫn. Những con cái tự phá thai bởi nó biết được những đứa con thế nào cũng sẽ bị giết, và làm vậy sẽ tiết kiệm được thời gian và công sức.
Hiệu ứng toàn cảnh có thể được xem là ít phổ biến nhất.
Trong số những hiệu ứng tâm lý mà chúng ta đã từng biết đến, quan sát, hay nghiên cứu, hiệu ứng toàn cảnh có thể được xem là ít phổ biến nhất – chỉ 534 người có cơ hội trải qua những điều kiện để cảm nhận được hiệu ứng này. Khi những nhà du hành đang ở trong quỹ đạo hay trên bề mặt của Mặt trăng, nơi mà họ có thể thấy toàn bộ trái đất, nhiều người tường thuật lại rằng họ có một cảm giác rất thật về quy mô và viễn cảnh.
Được đặt tên bởi nhà văn Frank White, hiệu ứng này có thể là sự chuyển động, bối rối, hứng khởi và cảm giác mạnh, như khi nhìn thấy được toàn cảnh của Trái đất. Những phi hành gia trở về với một cảm nhận hoàn toàn khác về sự kết nối của con người, sự vô nghĩa của những ranh giới văn hóa, và họ quan tâm hơn đến môi trường.
Hiệu ứng này liên quan đến sự ảnh hưởng của những thông điệp mà một người nhận được đến ý thức của họ.
Hiệu ứng Sleeper là một trạng thái tâm lý nhận được nhiều sự quan tâm và đồng thời cũng gây ra nhiều tranh luận, liên quan đến sự ảnh hưởng của những thông điệp mà một người nhận được đến ý thức của họ. Nhìn chung, khi một người xem một mẫu quảng cáo có nội dung tích cực, một mối quan hệ tích cực với thông điệp, hay sản phẩm ấy được hình thành. Tuy nhiên, qua một thời gian ngắn, nó phai dần và cuối cùng thì mất đi. Ngược lại, dưới một số điều kiện, nếu thông điệp đến kèm theo một điểm nhấn hoặc một liên hệ tri thức mật thiết với đời sống người xem thì sự kết nối với thông điệp đó sẽ tồn tại trong thời gian dài hơn.