PGS-TS Phan Lê Thanh Hương và cộng sự tại Viện Vệ sinh Dịch tễ T.Ư đã nghiên cứu thành công việc tạo huyết thanh và ứng dụng trong chẩn đoán. Công trình đã nghiên cứu ứng dụng quy trình gây miễn dịch, tạo huyết thanh kháng vi khuẩn Hib với các điều kiện thực tế Việt Nam.
Viêm màng não mủ và viêm phổi do vi khuẩn là hai loại bệnh lý phổ biến nhất ở trẻ em dưới năm tuổi, có tỷ lệ tử vong cao, hoặc để lại các di chứng nặng nề như động kinh, đần độn... Một trong những loại vi khuẩn chính gây nên căn bệnh nguy hiểm này đã được các nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam xác định là Hib.
Việc chẩn đoán nhanh và chính xác Hib là điều kiện then chốt để chữa trị căn bệnh này. Tại các nước phát triển, một trong những phương pháp chẩn đoán căn nguyên Hib dựa trên việc phát hiện kháng nguyên bằng kháng thể đặc hiệu cho kết quả sớm. Tại Việt Nam, cho đến trước năm 2004, chúng ta vẫn chưa thể áp dụng phương pháp tiên tiến này do giá thành nhập khẩu sản phẩm quá cao. Việc chẩn đoán xác định Hib vẫn chỉ dựa trên phương pháp cổ điển nuôi cấy phân lập vi khuẩn vốn có độ chính xác không cao và mất nhiều thời gian.
Sau nhiều năm nghiên cứu, PGS-TS Phan Lê Thanh Hương cùng các cộng sự tại Viện Vệ sinh Dịch tễ T.Ư đã thành công trong việc nghiên cứu tạo huyết thanh và ứng dựng trong chẩn đoán. Công trình đã nghiên cứu ứng dụng quy trình gây miễn dịch, tạo huyết thanh kháng vi khuẩn Hib của Viện sức khỏe quốc gia Hoa Kỳ với các điều kiện thực tế Việt Nam. Huyết thanh thỏ kháng Hib của các nhà khoa học Việt Nam có chất lượng tương đương với kháng huyết thanh nhập ngoại, giá thành lại rẻ hơn nhiều lần.
Ðiều ý nghĩa hơn, các nhà khoa học đã sử dụng chính chủng Hib gây bệnh thuộc type sinh học 2 được phân lập tại Việt Nam (trong khi trên thế giới 90% chủng gây bệnh thuộc type sinh học 1) và xây dựng quy trình miễn dịch điện di phát hiện nhanh thành phần kháng nguyên của vi khuẩn Hib trong dịch não tủy.
Thành công trong nghiên cứu tạo huyết thanh thỏ kháng Hib của các nhà khoa học Việt Nam đã tạo cơ sở để xây dựng quy trình kỹ thuật tăng tỷ lệ chẩn đoán phát hiện Hib thêm 40%, trong khi nếu dùng kỹ thuật cổ điển chỉ đạt 10 - 20%, rút ngắn thời gian cho kết quả từ 5 ngày xuống 120 phút. Ðây cũng sẽ là nền tảng cho việc nghiên cứu, sản xuất vắc-xin phòng bệnh nhiễm khuẩn Hib tại Việt Nam, góp phần thanh toán căn bệnh nguy hiểm này. Ðặc biệt, với thao tác đơn giản, giá thành rẻ hơn nhiều lần so với sinh phẩm nhập ngoại nên phương pháp chẩn đoán này có thể triển khai phổ cập tại các tuyến y tế trong cả nước. Thành công này còn cho phép pha chế môi trường phân lập đặc hiệu Hib từ bệnh phẩm đường hô hấp nhằm phục vụ công tác giám sát dịch tễ học cho đất nước.
LÊ HẠNH