Người Nga và người Mỹ tôn vinh các nhà du hành vũ trụ đầu tiên của họ như những người anh hùng. Thế nhưng anh hùng thật sự của công cuộc nghiên cứu lại là những gì được làm bằng kim loại và silic: Tàu thám hiểm không người lái.
>Đằng sau thành tựu và thất bại của NASA / NASA đã làm gì với động vật và cây cỏ trên quỹ đạo?
Đặt chân xuống Mặt Trăng là một việc. Đào sâu trong cát bụi của sao Hỏa hay thám thính nơi sâu thẳm của vũ trụ với kính thiên văn là việc khác. Từ khi con người bay vào vũ trụ, vài nhà nghiên cứu đã phê bình rằng đây chỉ là một dự án biểu dương thanh thế tốn kém mang lại ít kiến thức mới cho khoa học. Lịch sử của Cơ quan vũ trụ Mỹ cho thấy các nhà phê bình đã có lý: Những khám phá thật sự ngoạn mục không do các phi hành gia mang lại mà là những tàu thám hiểm không người lái.
Tàu thám hiểm "Viking 2" gửi lời chào từ sao Hỏa. "Viking 2" đáp xuống hành tinh láng giềng của Trái Đất vào ngày 3 tháng 9 năm 1976, một thành công lớn của ngành du hành vũ trụ. Ảnh: NASA. |
Các phi vụ, bắt đầu từ chương trình "Mariner" qua "Viking" cho đến "Hubble", "Cassini-Huygens" và robot sao Hỏa "Spirit" với "Opportunity" thuộc số những thành công lớn nhất của NASA. Cả 2 tàu thám hiểm "Voyager" khởi hành năm 1977 vẫn còn truyền về Trái Đất dữ liệu cho tới ngày hôm nay.
Hình ảnh các hành tinh của hệ Mặt Trời mà loài người có được ngày nay chắc là sẽ không có nếu như không có các tàu thám hiểm. Các nhà thiên văn học thời Trung cổ đã biết rằng sao Thổ có vành đai. Nhưng mãi đến các tàu "Pioneer 11" (1979), "Voyager" (1980/1981) và "Cassini-Huygens" (từ 2004) người ta mới có được hình ảnh với độ phân giải cao.
Nhiệm vụ cùng thực hiện với Cơ quan vũ trụ châu Âu ESA, "Cassini-Huygens", đồng thời cũng mở ra một kỷ nguyên mới của nghiên cứu hành tinh: Tàu thám hiểm không chỉ chụp ảnh đơn giản, chúng lần đầu tiên cũng đáp xuống vệ tinh của một hành tinh khác: "Huygens" đáp xuống vệ tinh Titan của sao Thổ năm 2005.
Cả hai robot "Spirit" và "Opportunity" của NASA, đáp xuống sao Hỏa năm 2004 vẫn còn hoạt động cho đến nay, luôn trên đường tìm kiếm dấu vết của sự sống. Tất nhiên là chúng vẫn còn chưa phát hiện được, nhưng thay vào đó "Opportunity" đã cung cấp bằng chứng về việc nước đã từng tồn tại ở thể lỏng trên sao Hỏa.
Kỷ nguyên tàu con thoi: Thắng lợi và thảm họa
Sau khi đáp xuống Mặt Trăng, NASA bắt đầu một dự án mới: Lên kế hoạch và xây dựng tàu vũ trụ có thể được tái sử dụng. Các tàu con thoi có nhiệm vụ giảm phí tổn vận chuyển và biến du hành vũ trụ trở thành một việc thông thường. Người ta đã nghĩ đến một phí tổn vận chuyển vào khoảng 200 USD cho 1 kg.
Các chuyến bay đầu tiên của tàu con thoi đã mang nhiều vệ tinh vào vũ trụ. Thế nhưng người ta nhanh chóng nhận thấy là việc sử dụng các tàu con thoi tốn kém hơn tính toán ban đầu rất nhiều - và vì thế không phù hợp cho việc chuyên chở vệ tinh mang tính thương mại. Từ đấy tàu con thoi chỉ được dùng cho vận chuyển vệ tinh quốc gia, nhưng đặc biệt là được sử dụng cho nghiên cứu.
Ảo mộng tan vỡ vào ngày 28 tháng 2 năm 1986 - hơn 1 phút sau khởi hành chuyến bay ST-51-L, và cả thế giới nhìn qua truyền hình. Một vòng đệm hỏng tại một trong hai tên lửa chất rắn là nguyên nhân gây ra vụ nổ tàu "Challenger", cướp đi sinh mạng của 7 người. Bất cẩn đã thâm nhập vào chương trình Shuttle, vì vấn đề với các vòng đệm đã được biết trước khi tai nạn xảy ra.
Phong cảnh sao Hỏa do "Opportunity" chụp. Ảnh: NASA/JPL |