Công nghệ robot điều khiển đang làm thay đổi hoàn toàn mọi mặt đời sống. Nhưng liệu có giới hạn nào cho những cỗ máy thông minh?
>>> Elon Musk bày tỏ lo ngại về trí thông minh nhân tạo
Từ máy tính Deep Blue hạ gục vua cờ Garry Kasparov cho tới những máy bay không người lái có thể bắn hạ chính xác các mục tiêu dưới đất, từ xe tự lái tới tên lửa hành trình, công nghệ robot điều khiển đang làm thay đổi hoàn toàn mọi mặt đời sống. Nhưng liệu có giới hạn nào cho những cỗ máy thông minh?
Con người và các “robot cộng tác” (collaborative robot, hay cobot) ngày nay làm việc cùng nhau như những cộng sự thật sự, trên bàn cờ vua, trong xưởng máy và cả trên chiến trường. Những cobot hiện đại nhất có thể hoạt động thoải mái trong không gian làm việc của con người.
Nhiều cobot không còn phải hoạt động trong tình trạng luôn có người canh chừng như những tiền bối của chúng trong quá khứ nữa.
“Nhiều năm qua, khi chúng ta đặt một con robot vào một nhà máy, những người ở cấp quản lý sẽ nói: Cái máy đó làm được chuyện này chuyện kia - Erik Nieves, giám đốc công nghệ Công ty Yaskawa Motoman Robotics có trụ sở ở Miamisburg, Ohio (Mỹ), nói - Giờ thì những người quản xưởng phải nhìn nhận chúng khác đi. Chúng không còn chỉ thực hiện một công việc riêng rẽ nữa, mà như những người lao động thật sự của dây chuyền”.
Có một tay hoặc hai tay, 6 trục hoặc 7 trục, giá từ 22.000 USD tới vài triệu USD, những con cobot ngày một hiện đại đang lấn chiếm dần mọi khoảng không gian hoạt động của con người. Một ví dụ điển hình là Baxter, cobot hai tay mô phỏng con người của Hãng Rethink Robotics, gần như là một ngôi sao trong giới robot sau khi ra mắt vào tháng 9/2012.
Cobot này có hai cánh tay bảy trục nối với một phần thân và “khuôn mặt” là một màn hình LCD có thể nhận ra và phản xạ tương ứng với phản xạ của người đối diện. Cân nặng 75kg và có thể nâng 2,3kg cho mỗi cánh tay. Baxter có các cảm ứng âm thanh và hình ảnh để phát hiện con người khi họ tiến vào không gian của nó, và biết phân biệt đâu là người, đâu là đồ vật.
Robot ngôi sao Baxter (phải) - (Ảnh: newventurist.com)
“Baxter lý tưởng cho những nhiệm vụ lặp đi lặp lại và không cần nhiều kỹ năng, nhưng lại đòi hỏi cảm nhận nhất định như một con người - Mitch Rosenberg, phó chủ tịch tiếp thị và quản lý sản phẩm của Rethink Robotics ở Boston, Massachusetts, nói - Chẳng hạn, kiểm tra một phần sản phẩm xem nó đạt chuẩn chưa và nếu đạt thì đặt nó vào nhóm tốt. Ngược lại, đặt nó vào nhóm sản phẩm lỗi”.
Một ví dụ khác là robot nhẹ LBR iiwa (intelligent industrial work assistant: trợ lý công nghiệp thông minh) của Hãng KUKA. Ra mắt tại triển lãm Hannover Messe ở Đức vào tháng 4/2013, cobot này được phát triển qua một thỏa thuận giữa KUKA và Trung tâm Không gian Đức (DLR) với mục tiêu ban đầu là để nó làm việc ngoài vũ trụ. Mẫu hiện giờ bao gồm cánh tay bảy trục, cân nặng 23kg.
Trong chương trình thử nghiệm, cobot này đã tham gia sản xuất hơn 500.000 trục dẫn động hộp số của Hãng Daimler AG cho thương hiệu xe Mercedes-Benz của hãng này tại nhà máy ở Stuttgart (Đức) vào năm 2009.
Nhưng sự thông minh có phần thái quá của các cobot ngay lập tức nêu trở lại câu hỏi muôn thuở trong việc chế tạo những cỗ máy này: an toàn cho con người. Điều này đặc biệt đúng khi những thế hệ cobot mới không bị giám sát đều được thiết kế để trở thành đối tác, làm việc chung vai sát cánh, chứ không còn do/bị con người điều khiển nữa.
Những tiêu chuẩn an toàn mới nhất giải quyết vấn đề con người và cobot là ANSI/RIA R15.06-2012 hay Những yêu cầu với các hệ thống robot công nghiệp và robot; và ISO 10218:2011 hay những yêu cầu an toàn cho các robot công nghiệp, robot và thiết bị robot, do Hiệp hội Robot công nghiệp quốc tế (RIA) ban hành.
“Những tiêu chuẩn này được thiết kế với cân nhắc trước hết là các cobot - Pat Davison, giám đốc phụ trách các tiêu chuẩn của RIA ở Ann Arbor, Michigan (Mỹ), nói - Chúng đảm bảo con người và robot có thể làm việc cùng nhau một cách an toàn”.
Các cobot ngày nay sử dụng những công nghệ khác nhau để đảm bảo an toàn vận hành. “Nếu chúng tiếp xúc với con người hay bất cứ đồ vật nào gây ra phản lực, nó sẽ dừng lại ngay lập tức” - Edward Mullen, giám đốc bán hàng quốc gia của Hãng Universal Robots USA, nói. LBR iiwa của KUKA cũng hoạt động trên nguyên tắc này.
“Robot nhẹ của chúng tôi có những cảm biến ở mỗi phần trong bảy trục khớp tay - Michael Gerstenberger của KUKA nói - Điều đó có nghĩa là ở cuối mỗi khớp tay, cobot đều có một cảm biến dừng. Ngay cả nếu các phần cảm ứng đó không hoạt động hay cả ở phần thân, hệ thống điều khiển vẫn thiết kế để chúng nhận biết rằng một khi có một bộ phận hư hỏng thì toàn hệ thống sẽ ngưng hoạt động”.
Trước các quy chuẩn chính thức về sự an toàn của robot với con người, ba luật của robot, hay ba luật của Asimov, được coi là tiêu chuẩn cho các robot hiện đại. Dù chỉ được nêu ra trong truyện ngắn viễn tưởng Runaround của tác giả người Mỹ Isaac Asimov, ba luật này đã được giới chế tạo robot tôn trọng cho tới tận gần đây. Các luật đó là:
1. Robot không thể làm con người bị tổn thương hay “đứng nhìn” một con người lâm vào nguy hiểm.
2. Một robot phải tuân lệnh con người, trừ khi mệnh lệnh đó trái với luật số 1.
3. Một robot phải tự bảo vệ cho sự tồn tại của mình, trừ khi điều đó mâu thuẫn với luật số 1 hay số 2.
Tuy nhiên, trên thực tế rất nhiều robot không thể tuân thủ các điều luật đó vì nhiều lý do. Một số robot quá đơn giản để hiểu được là chúng đang gây nguy hiểm cho con người và phải dừng lại. Thật ra, ngay cả những robot hiện đại nhất ngày nay cũng chưa thể đáp ứng đầy đủ ba điều luật đó.
Trong một bài xã luận với tư cách khách mời cho tạp chí khoa học nổi tiếng Science với nhan đề “Robot Ethics” (Đạo đức robot), tác giả Robert J. Sawyer cho rằng kể từ khi quân đội Mỹ sử dụng rất nhiều loại robot khác nhau, điển hình là những máy bay không người lái đã tiến hành không biết bao nhiêu cuộc bắn phá ở Trung Đông, các luật của Asimov không còn nhiều ý nghĩa thực tế nữa.
Sawyer cũng cho rằng các ngành công nghiệp có nhu cầu sử dụng robot như ôtô hay các nhà máy hạt nhân, vì đòi hỏi của tính hiệu quả càng ít quan tâm tới những nguyên tắc bảo vệ cơ bản cho con người, nhất là khi chúng chỉ mang ý nghĩa triết lý.
Sau này, những tác giả viễn tưởng nổi tiếng như David Langford lại lập ra nhiều luật mới cho robot, nhưng cũng đều dựa trên những điều cơ bản của Asimov.
Hay trong số ra tháng 7 và 8/2009 của tạp chí IEEE Intelligent Systems, Robin Murphy, giáo sư về khoa học máy tính và công nghệ ở Đại học Texas A&M, và David D. Woods, giám đốc Phòng thí nghiệm hệ thống robot ở bang Ohio, đề xuất “Ba luật về các robot có trách nhiệm”, đại khái cũng không khác nhiều so với luật của Asimov, chỉ là điều 1 được thay bằng: Một robot phải hoạt động theo các tiêu chuẩn đạo đức, pháp lý và chuyên nghiệp cao nhất về phương diện an toàn.
Năm 2007, Chính phủ Hàn Quốc đã công bố “Hiến chương đạo đức robot” thiết lập các tiêu chuẩn nữa cho người sử dụng và chế tạo robot. Park Hye Young thuộc Bộ Thông tin liên lạc Hàn Quốc thừa nhận bộ tiêu chuẩn này xuất phát từ ba điều luật cơ bản của Asimov.
Một lo ngại khác, là viễn tưởng trong quá khứ nhưng ngày càng hiển hiện ngày nay, là quyền riêng tư của con người. Trong tiểu thuyết viễn tưởng The first circle của nhà văn Nga Aleksandr Solzhenitsyn in năm 1968, ông đã mô tả công nghệ nhận diện giọng nói của các robot có thể được sử dụng để áp bức người dân ở các chế độ độc tài.
Nếu một chương trình nhân tạo có thể hiểu được những thứ ngôn ngữ tự nhiên của con người thì trên lý thuyết, nó đủ sức nghe lén mọi cuộc điện thoại và đọc mọi thư từ trên thế giới, chuyển về những thông tin đã chắt lọc cho các bộ phận mật vụ và kiểm duyệt. Đó chính xác là những gì xảy ra ở Cơ quan An ninh quốc gia Mỹ (NSA) trong vụ Edward Snowden.
Trong khi đó, Joseph Weizenbaum, một khoa học gia và tiểu thuyết gia viễn tưởng người Mỹ gốc Đức, từng tranh luận vào năm 1976 rằng các công nghệ hiện đại không thể thay thế con người ở những vị trí đòi hỏi sự tôn trọng và thấu hiểu như chăm sóc khách hàng, vật lý trị liệu, tâm lý học, điều dưỡng cho người già, quan tòa, cảnh sát...
Nhưng cho đến nay, có lẽ trừ quan tòa và cảnh sát, rất nhiều vai trò mà Weinzenbaum từ chối cho robot trước kia đã trở thành sự thật.
Câu hỏi là liệu những gì mà các bộ phim viễn tưởng như I, Robot hay Surrogates về một tương lai loài người bị robot khống chế sẽ đổ ập xuống nhân loại vào thời điểm nào có lẽ không phải là một câu hỏi quá hoang đường.