Nhiều thiên niên kỷ trước, trước khi lịch sử được viết ra, những loài sinh vật kỳ lạ này từng lang thang trên Trái đất.
Nổi tiếng nhất trong số những sinh vật thời tiền sử từng được con người phát hiện là những loài khủng long. Vô số bộ phim đã được thực hiện về những loài bò sát tuyệt vời này. Nhưng trong các thời đại khác nhau của thời tiền sử, thế giới của chúng ta từng tồn tại rất nhiều sinh vật kỳ lạ và tuyệt vời khác.
Sinh vật này có đầu và đuôi của một con cá.
Sống ở cuối kỷ Devon, Ichthyostega là một trong những loài động vật lưỡng cư xuất hiện sớm nhất trên hành tinh. Nó có đầu và đuôi của một con cá, và cần phải quay trở lại mặt nước để sinh sản.
Đặc điểm phân biệt Ichthyostega với cá vây thùy là các chi. Ở Ichthyostega, các vây được nối với nhau, có xương chân và ngón chân. Bàn chân của Ichthyostega khá kỳ lạ theo tiêu chuẩn hiện đại bởi nó có tới tận tám ngón chân mỗi bàn.
Sharovipteryx sống ở kỷ Trias sớm hơn 240 triệu năm trước.
Các nhà khoa học tin rằng Sharovipteryx là tổ tiên có mối liên hệ với loài bò sát có cánh là thằn lằn bay. Bản thân nó không được phân loại là một loài thằn lằn bay thực sự, nó sống ở kỷ Trias sớm hơn 240 triệu năm trước.
Hóa thạch của sinh vật này đã được khai quật tại hệ tầng Madygen ở Kyrgyzstan, Trung Á. Nó chỉ dài khoảng 30 cm. Sinh vật kỳ lạ này có bốn phần phụ dường như sở hữu những vạt da mỏng giống như đôi cánh. Hai chi trước khá ngắn, trong khi đó chi sau dài hơn rất nhiều.
Một số giả thuyết cho rằng cấu trúc cơ thể này cho phép Sharovipteryx có thể nhảy một cách dễ dàng. Các nhà cổ sinh vật học tin rằng phương thức vận chuyển của nó giống như lướt hơn là bay thực sự - có lẽ chúng di chuyển giống như những loài sóc bay hiện tại, nhảy và lướt trên không để di đi đến những cành cây khác.
Longisquama sống trong các khu rừng nằm trên siêu lục địa Pangea trong thời kỳ Triassic.
Sinh vật này được xếp vào phân lớp diapsid - một phân lớp bò sát nguyên thủy sẽ phát triển thành phân lớp bò sát quan trọng nhất trên hành tinh của chúng ta. Những sinh vật thuộc lớp này ban đầu xuất hiện như một nhóm nhỏ các loài bò sát giỏi leo trèo. Longisquama sống trong các khu rừng nằm trên siêu lục địa Pangea trong thời kỳ Triassic.
Đặc điểm nổi bật nhất của sinh vật kỳ lạ này là một hàng kép gồm các cấu trúc giống như vảy dài chạy dọc theo lưng, tạo thành 6 đến 8 cặp. Những cặp váy này sẽ mọc tương ứng với mỗi cặp xương sườn. Các vảy có một tĩnh mạch rỗng ở giữa, giống như lông chim. Nhưng không giống như lông vũ, vảy của Longisquama dường như được tạo thành từ các tấm phẳng chứ không phải lông vũ thật.
Đây lại là loài độc nhất trong số những loài cá sấu sơ khai.
Trái đất kỷ Trias tồn tại rất nhiều loài cá sấu tiền sử và Stagonolepis cũng là một trong số đó. Tuy nhân đây lại là loài độc nhất trong số những loài cá sấu sơ khai và có lẽ là cũng vô cùng đặc biệt khi so sánh với cá sấu hiện đại.
Những loài cá sấu mà chúng ta từng biết đều là những loài ăn thịt, tuy nhiên Stagonolepis lại hoàn toàn khác, chúng là động vật ăn cỏ và chúng chúng là một trong những loài phổ biến nhất vào cuối kỷ Trias.
Sinh vật kỳ lạ này có một cái đầu rất nhỏ khi so với kích thước của cơ thể (chỉ chiếm khoảng 10% tổng chiều dài cơ thể). Điều đặc biệt là phía trước hàm của chúng không có răng, thay vào đó là một cấu trúc giống như mỏ để hỗ trợ cho việc đào bới cùng với hai chi trước để tìm kiếm thức ăn.
Sinh vật thời tiền sử này có lồng ngực lớn và có khả năng dài tới 120cm.
Casea là một nhóm bò sát sơ khai và không có loài bò sát nào trong số chúng sống được đến ngày nay. Cơ thể của những sinh vật này đồ sộ giống như con lợn, tuy nhiên chúng lại có một cái đầu nhỏ xíu, hàm trên nhô ra với những chiếc răng sắc nhọn, tuy nhiên lại không có một chiếc răng nào ở hàm dưới. Điều này đã khiến cho Casea có một vẻ ngoài khá ngớ ngẩn. Những sinh vật thời tiền sử này có lồng ngực lớn và có khả năng dài tới 120 cm. Những sinh vật kỳ lạ này sống chủ yếu vào cuối thời kỳ Permi.
Đây là được cho là loài chim thủy tổ.
Tên tiếng Hy Lạp của sinh vật này “con chim đầu tiên”, nó được cho là đã tồn tại trong kỷ Jura. Một chiếc lông vũ hóa thạch cùa loài này được phát hiện vào năm 1861 tại Solnhofen, Đức, nơi các mỏ vôi chất lượng cao được khai thác trong hơn một thế kỷ.
Loài khủng long này khá bí ẩn với các nhà cổ sinh vật học.
Loài khủng long này là một chút bí ẩn đối với các nhà cổ sinh vật học vì bằng chứng duy nhất được biết về sự tồn tại của nó là một số ít hài cốt hóa thạch, bao gồm hai chi trước và một số đốt sống. Phần còn lại hóa thạch được tìm thấy vào ngày 9 tháng 7 năm 1965 tại Mông Cổ và được đặt tên là Deinocheirus được dịch ra là “bàn tay khủng khiếp”.
Những sinh vật này được cho là có thị lực tuyệt vời.
Tên của nó có nghĩa là “răng hai dạng”, là kết quả của việc có hai loại răng riêng biệt trong hàm của nó. Những sinh vật này được cho là có thị lực tuyệt vời và móng vuốt vô cùng sắc bén để săn cá, mực hoặc thằn lằn.
Đây là loài bò sát đầu tiên gần với chim hơn là khủng long.
Mặc dù Archaopteryx được ghi nhận là “loài chim đầu tiên”, nhưng Epidendrosaurus hay “thằn lằn trên cây” là loài bò sát đầu tiên gần với chim hơn là khủng long. Nó dài khoảng 6 inch và sử dụng những cánh tay dài và bàn tay có móng vuốt để cạy côn trùng ra khỏi vỏ cây.
Loài khủng long có lông vũ nhỏ từng tồn tại ở khu vực Nội Mông của Trung Quốc, Epidexipteryx là đại diện sớm nhất được biết đến về những loài khủng long có lông vũ trong hồ sơ hóa thạch.
Đây là một trong những loài động vật chân đốt lớn nhất từng được phát hiện
Loài bọ cạp biển đã tuyệt chủng này có chiều dài ước tính khoảng 2,5 mét, là một trong những loài động vật chân đốt lớn nhất từng được phát hiện. Mặc dù được mệnh danh là “bọ cạp biển”, nhưng nó được cho là sống ở các sông và hồ nước ngọt thuộc nước Đức ngày nay.