So với các loài khác trong họ Chó, lửng chó có nhiều đặc điển khác thường như: sử dụng nhiều thực vật trong chế độ ăn, leo trèo cây giỏi và ngủ đông ở những vùng có khí hậu lạnh giá.
Thoạt nhìn, trông chúng có vẻ rất giống với gấu mèo, nhưng thực ra, hai loài này chẳng hề liên quan họ hàng với nhau.
Chúng có đầu nhỏ, tai tròn, mõm ngắn và hơi nhọn, chân ngắn.
Lửng chó trưởng thành có chiều dài thân 54-61 cm, đuôi dài 16-18 cm, nặng 3-5 kg. Chúng có đầu nhỏ, tai tròn, mõm ngắn và hơi nhọn, chân ngắn. Bộ lông lửng chó dài và thô, màu vàng hung, mút lông xám, đầu, mỏm và bốn vó chân đen. Lông đuôi rậm, màu xám.
Có nguồn gốc từ khu vực Đông Á, lửng chó (Nyctereutes procyonoides) là một gương mặt thú vị thuộc họ Chó (Canidae). Chúng là loài bản địa ở vùng Amur của Nga, Đông Trung Quốc, Bắc Việt Nam và Lào.
Loài vật họ Chó này sống trên ở khu vực savan cây bụi, ven các nương rẫy, dọc theo khe suối. Chúng có sống đơn độc, thầm lặng và luôn thận trọng, kiếm ăn từ chập tối đến nửa đêm.
Sở hữu vẻ bề ngoài dễ thương như thú nhồi bông, nhưng thực chất lửng chó lại là nỗi kinh hoàng với mọi sinh vật nhỏ bé mà chúng gặp. Loài vật này có khả năng "ăn cả thế giới" với cái bụng đói như "thùng không đáy". Nhờ chế độ ăn đa dạng, chúng đang xâm lấn nhiều nơi trên thế giới và tàn phá hệ sinh thái.
Chúng ăn rất nhiều thứ, từ rễ cây, cá cho tới chim chóc.
Tuy thuộc họ Chó nhưng lửng chó lại có quan hệ họ hàng gần với cáo hơn là chó nhà và chó sói. Kẻ săn mồi đói khát này ăn tạp nhất trong số loài chó.
Mặc dù rất giống gấu mèo (Procyon lotor), lửng chó không có quan hệ họ hàng gần với loài vật sống ở Bắc Mỹ này. Bên ngoài chi Nyctereutes, lửng chó có họ hàng gần nhất với các loài cáo (chi Vulpes).
Có bốn phân loài lửng chó được công nhận, gồm lửng chó Ussuri (N. p. ussuriensis), lửng chó Trung Hoa (N. p. procyonoides), lửng chó Triều Tiên (N. p. koreensis) và lửng chó Vân Nam (N. p. orestes).
Chúng ăn rất nhiều thứ, từ rễ cây, cá cho tới chim chóc. Những loài gặm nhấm như chuột nhảy và chuột đồng cũng nằm trong thực đơn của chúng. Thậm chí, ở vùng đầm lầy, lửng chó "xơi" cả rùa và ếch độc. Chúng tự bảo vệ bản thân bằng cách tiết thêm nước bọt để làm loãng độc tố.
Suốt mùa đông giá rét, khi nguồn thực phẩm trở nên khan hiếm hơn, lửng chó tìm ăn cả xác thối và phân. Chế độ ăn đặc biệt này khiến chúng bị "hôi miệng", nhưng nhờ đó sống sót được qua những tháng rét buốt.
Không chỉ ăn tạp, lửng chó còn được mệnh danh là "bậc thầy" của khả năng "tàng hình". Chúng chủ yếu hoạt động về đêm, nhờ đó giúp bảo vệ con non thoát khỏi sự dòm ngó của "kẻ săn mồi" ban ngày như đại bàng và con người.
Giống như gấu mèo có khả năng chống chọi và sống sót qua mùa đông khắc nghiệt vùng Bắc Mỹ, thì lửng chó lại có bộ lông rất dày, nhờ đó bảo vệ chúng khỏi nhiệt độ thấp tới -25 độ C. Chúng cũng giống như các loài ngủ đông khác phải dựa vào nguồn dự trữ chất béo để tồn tại.
Những con "không đủ béo" khó lòng tồn tại qua mùa rét khắc nghiệt như ở Siberia.
Khi bước vào trạng thái ngủ đông, lửng chó thường nặng khoảng 7kg. Mùa đông rét mướt kết thúc, chúng thậm chí sụt một nửa trọng lượng. Bởi vậy, những con "không đủ béo" khó lòng tồn tại qua mùa rét khắc nghiệt như ở Siberia.
Suốt theo chiều dài lịch sử, lửng chó trở thành loài bị con người săn lùng để kiếm bộ lông dày của chúng làm áo khoác và mũ. Vào đầu thế kỷ 20, những thợ săn người Nga đưa chúng tới trang trại lông thú ở miền tây nước này để kiếm bộ lông dễ dàng hơn.
Nhưng một số con đã trốn thoát và bắt đầu sinh sản trong tự nhiên. Kể từ đó, chúng mở rộng phạm vi phân bố tới phía tây nước Nga, các nước Baltic, Phần Lan và một phần của Thụy Điển, rồi tới Trung Âu, Tây Âu.
Thực tế phải thừa nhận, lửng chó đang là mối đe dọa với nhiều động vật bản địa, các quần thể chim, động vật lưỡng cư và bò sát. Bởi vậy, chính quyền địa phương ở nhiều nơi đang cố gắng loại bỏ chúng.