Những chấn động kinh hoàng làm cho não phản ứng lại nỗi sợ hãi nhiều hơn

  •  
  • 878

Theo một cuộc nghiên cứu mới về não, thậm chí những người có vẻ mau hồi phục nhưng ở gần Trung Tâm Thương Mại Thế Giới khi tòa tháp đôi đổ sụp xuống vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, có bộ não phản ứng lại những tác nhân kích thích xúc cảm nhiều hơn những người cách khu vực đó hơn 200 dặm.

Đó là khám phá của cuộc nghiên cứu mới của trường Đại học Cornell loại trừ những người không có những rối loạn tinh thần như Hậu chấn tâm lý (PTSD) hay trầm cảm. Một trong những nghiên cứu đầu tiên để tìm hiểu tác động của chấn thương lên não của người khỏe mạnh được xuất bản trong số ra Tháng 5 của tạp chí Emotion.

Elise Temple - đồng tác giả và là phó giáo sư nghiên cứu phát triển của con người tại trường Cornell cho biết: “Những người này có vẻ như vẫn ổn nhưng thực sự thì họ đang có những phản ứng nhạy cảm với tác nhân gây ra sự khó chịu.”

Theo những nghiên cứu khác thì hơn phân nửa dân số trải qua chấn thương, điều mà khiến cho họ dễ mắc phải bệnh Hậu chấn tâm lý, trầm cảm, bồn chồn lo lắng và bệnh về thể chất trong cuộc sống về sau. Đồng thời, chấn thương đã được phát hiện làm cho các trung tâm xử lý xúc cảm của não - đặc biệt là những hạnh nhân, những phần của bộ não có chức năng xét đoán cường độ xúc cảm và tạo nên những ký ức xúc cảm - nhạy cảm hơn trong trường hợp của Hậu chấn tâm lý.

Vụ nổ tòa tháp đôi tại Mỹ ngày 11 tháng 9 năm 2001 (Ảnh: Search.com)

Những phát hiện cho thấy sự kiện gây sốc, gây sợ hãi và kinh hoàng trong một tầm mức bình thường có thể gây ra thay đổi trong bộ não. Nạn nhân có  những triệu chứng kéo dài (gặp ác mộng, hay bị giật mình, nghĩ về việc đã qua và tránh nơi xảy ra chấn thương) nhưng những triệu chứng này không nghiêm trọng. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu nghi ngờ rằng các loại thay đổi do chấn thương này gây ra trong não gây nên khả năng dễ mắc phải những rối loạn tinh thần trong tương lai.

Cụ thể, các nhà nghiên cứu trường Cornell đã phát hiện ra: 3 năm sau sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001, hạnh nhân của những ai ở gần Trung Tâm Thương Mại Thế Giới trở nên vô cùng nhạy cảm. Những cá nhân này có xu hướng vẫn trải qua các triệu chứng kéo dài mà chưa đủ nghiêm trọng để được chẩn đoán là một loại rối loạn tinh thần. Những người có triệu chứng kéo dài biểu hiện một cách đáng kể về phản ứng xúc cảm nhạy cảm hơn trong não khi bị những bức ảnh về những khuôn mặt sợ hãi kích thích.

Dẫn đầu cuộc nghiên cứu Barbara Ganzel, Thạc sĩ Khoa học năm 1999 và Tiến sĩ năm 2002 của trường Cornell, một nhà nghiên cứu sau tiến sĩ về sự phát triển của con người tại Cornell cho biết: “Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy: có những yếu tố tương quan lâu dài về dây thần kinh khi bị chấn thương thậm chí ở những người trông rất mau hồi phục. Cho đến giờ, vẫn có rất ít bằng chứng về điều đó.”

Dùng phương pháp chụp ảnh cộng hưởng từ chức năng để xem não người phản ứng như thế nào với những bức ảnh về những khuôn mặt sợ hãi so với những khuôn mặt bình tĩnh, hình scan của 11 người cách Trung Tâm Thương Mại Thế Giới trong vòng 1,5 dặm vào ngày 11 tháng 9 năm 2001 được so với những người ở cách đó hơn 200 dặm tại thời điểm đó, không có đối tượng nào bị rối loạn tâm thần.

Tiến sĩ Ganzel cho biết: “Chúng tôi biết rằng việc nhìn những khuôn mặt sợ hãi đối với những người trưởng thành bình thường có xu hướng kích hoạt hóa những hạnh nhân có liên quan đến việc nhìn những khuôn mặt trung lập. Vì thế chúng tôi đang xét xem liệu những người đã từng có một trải nghiệm rất tồi tệ có nhiều phản ứng hơn đối với tác nhân kích thích quen thuộc tương đối êm dịu này hay không.”

Quả thực, hạnh nhân của người ở gần tòa tháp đôi đã được hoạt hóa nhiều hơn hạnh nhân của người khác một cách đáng kể thậm chí khi những nhân tố khác đã được điều chỉnh trong cuộc phân tích.

Temple nói: “Những người trải qua chấn thương mà đã để lại cho họ những triệu chứng kéo dài là những người có tình trạng hoạt động cao hơn trong các trung tâm của nỗi sợ hãi. Chúng tôi nghĩ rằng sự kiện ở Trung Tâm Thương Mại Thế Giới đủ gây chấn thương để nó để lại cho họ những hạnh nhân quá ‘hiếu động’.”

Đồng tác giả khác của cuộc nghiên cứu gồm có B.J. Casey, Viện Tâm sinh lý Phát triển Sackler thuộc trường Y khoa Weill Cornell, Henning Voss - nhà vật lý học thuộc Trung tâm chụp ảnh Y sinh CitiGroup ở Thành phố New York, và Gary Glover từ trường Đại học Standford - người đã phát triển những kỹ thuật fMRI đã được áp dụng.

Kim Tuyến

Theo Science Daily, Sở KH & CN Đồng Nai
  • 878