Perl (viết tắt của Practical Extraction and Report Language - ngôn ngữ kết xuất và báo cáo thực dụng) được Larry Wall xây dựng từ năm 1987, với mục đích chính là tạo ra một ngôn ngữ lập trình có khả năng chắt lọc một lượng lớn dữ liệu và cho phép xử lí dữ liệu nhằm thu được kết quả cần tìm.
Ban đầu, ngôn ngữ này có tên là "Pearl" (ngọc trai), được đặt tên theo "Parable of the Pearl" trong sách phúc âm. Larry đã bỏ nhiều công sức tìm kiếm tên cho ngôn ngữ mới. Ông đã thử xem xét (và bỏ qua) tất cả các từ 3,4 ký tự trong tự điển. Cuối cùng, ông đã đặt tên Pearl. Nhưng trước ngày phiên bản chính thức đầu tiên của Perl ra đời, Larry phát hiện ra đã có một ngôn ngữ cũng có tên là PEARL, nên ông quyết định đổi tên ngôn ngữ mình thành Perl.
Ngày nay, Perl trở thành tên chính thức của một trong những ngôn ngữ thông dịch mạnh mẽ được nhiều người sử dụng trên thế giới.
Perl là ngôn ngữ thông dụng trong lĩnh vực quản trị hệ thống và xử lí các trang Web do có các ưu điểm sau:
Cú pháp lệnh của Perl khá giống với ngôn ngữ lập trình C, từ các kí hiệu đến tên các hàm, do đó, nhiều người (đã có kinh nghiệm với ngôn ngữ lập trình C) thấy Perl dễ học. Perl khá linh hoạt và cho phép người sử dụng giải quyết với cùng một vấn đề được đặt ra theo nhiều cách khác nhau.
Wall bắt đầu thiết kế Perl vào năm 1987 lúc đang làm lập trình viên cho Unisys và cho ra đời phiên bản 1.0 trên comp.sources.misc vào ngày 18 tháng 12 năm 1987. Ngôn ngữ được mở rộng một cách nhanh chóng vài năm sau đó. Phiên bản 2 của Perl, được công bố năm 1988, có tính năng tốt hơn cho biểu thức chính qui. Phiên bản 3, công bố năm 1989, với hỗ trợ cho các dữ liệu dạng nhị phân.
Cho đến năm 1991, trang man là tài liệu duy nhất của Perl. Năm 1991, cuốn sách Programming Perl đã được xuất bản và trở thành cuốn cẩm nang tra cứu của ngôn ngữ Perl. Cùng lúc đó, phiên bản 4 ra đời, đánh dấu sự thay đổi quan trọng của ngôn ngữ, và là phiên bản đầu tiên được viết trong sách.