Chạm vào ong

  •  
  • 580

Quen nhau trong mấy ngày lội rừng ở lâm ngư trường Sông Trẹm, trước khi chia tay, kỹ sư Phùng Hữu Chính - làm việc ở Trung tâm nghiên cứu ong Hà Nội - tặng tôi tờ tạp chí Con Ong của Viện nghiên cứu ngành ong Trung ương. Tất nhiên, tờ tạp chí đã giúp tôi hiểu thêm rất nhiều về con ong ở góc độ khoa học.

Ngàn vết đánh của ong

Tất nhiên có nhiều loài ong và ong nào chích cũng đau bởi chúng tiết ra một loại độc tố mà ta quen gọi là nọc. Thậm chí có loại ong đánh chết người như ong vò vẽ. Nói chung, tất cả các loài ong đều sống nhờ mật hoa nhưng nổi tiếng nhất vẫn là ong mật ở rừng tràm U Minh. Theo kỹ sư Phùng Hữu Chính thì loài ong này có tên khoa học là Apisdorzata, được phân bổ ở các khu rừng nhiệt đới và cận nhiệt đới ở các nước châu Á. Song, môi trường lý tưởng nhất của chúng vẫn là rừng U Minh bởi sự hấp dẫn của hoa tràm. Loài ong này sở dĩ được cả thế giới quan tâm là vì mật của chúng là nguồn dinh dưỡng quý giá cho con người. Riêng đối với cánh thợ rừng ăn ong chuyên nghiệp, sau khi lấy mật đem bán, phần ong non là món mồi nhậu cao cấp mà trong chúng ta, ai đã từng nếm qua mới biết giá trị của nó như thế nào.

Xin cảm ơn các nhà khoa học đã đưa tấm thân cho ong đánh đến hàng trăm, hàng ngàn vết để chúng ta có những tư liệu đầy lý thú về xã hội của loài ong.

Một trong những con người dũng cảm ấy mà tôi có may mắn được gặp là kỹ sư Trần Quốc Thái, năm nay chưa đầy ba mươi tuổi. Thái được Trung tâm nghiên cứu ong Hà Nội phân công về lâm ngư trường Sông Trẹm để nghiên cứu kinh nghiệm của nghề gác kèo ong truyền thống ở U Minh theo một dự án của Hà Lan. Cứ sáng sớm Thái chạy xuồng máy vô rừng, có khi lội theo các cụ già trong Đoàn Phong Ngạn, có khi suốt ngày làm việc bên những tổ ong, chiều chạy về. Ngày nào trên người Thái cũng đầy những vết bầm do ong đánh. Người ta kể rằng có những lần Thái bị đàn ong tấn công đến mức phải đưa đi cấp cứu. Đến nay dường như cơ thể của Thái đã bị chai lì, Thái xem chuyện ong đánh chỉ là những trò chơi, thậm chí anh còn cho rằng ong đánh rất nên thuốc vì nó chữa được bệnh đau nhức. Nhiều đêm Thái kể tôi nghe về chuyện sinh hoạt xã hội của đàn ong một cách say sưa làm tôi cứ ngỡ như anh với đàn ong kia vốn là bầu bạn.

“Xã hội pháp quyền” của côn trùng

Thái nói, con ong quản lý xã hội của chúng có những cái độc đáo mà con người cần rút kinh nghiệm. Chẳng hạn như cái tổ ong có đến bảy tám chục ngàn lao động mà chỉ một mình con ong chúa chỉ huy, không có trợ lý, không có phó giám đốc, không phòng tổ chức hành chính, cũng không có phòng kế toán, tài vụ, phòng nhân sự, công đoàn… nói chung là không có bộ máy gián tiếp. Dưới ong chúa chỉ có hai nhóm chuyên môn là ong đực và ong thợ. Ở chúng không xảy ra chuyện đấu đá nội bộ hay tranh chức tranh quyền, lại càng không có chuyện móc ngoặt, hối lộ hay ăn cắp của công. Chính vì sự liêm khiết và tinh thần đoàn kết ấy mà công việc làm ăn của chúng cứ chạy một cách răm rắp, luôn đạt hiệu quả kinh tế cao, không bao giờ bị mất cân đối hay thua lỗ, không thất thoát một đồng xu cắc bạc nào. Bằng một quy trình công nghệ quản lý rất chuyên nghiệp, sau khi đậu kèo được hai mươi ngày là ong thợ đã xây xong tổ và lấy mật dự trữ đầy kho, đồng thời chúng thay nhau chăm sóc ong chúa, đi lấy nước, lấy phấn hoa về nuôi ấu trùng và thay nhau quạt để điều hoà nhiệt độ cho tổ ong khi gặp thời tiết bất thường. Trong thời gian này, ong chúa vừa làm nhiệm vụ đẻ trứng, vừa tiết ra chất để điều khiển đàn ong - mà theo con người gọi đó là phần mềm quản lý. Cứ 24 giờ, mỗi ong chúa sản sinh ra 1.500 con ong thợ. Đến khi một thế hệ ong thợ trưởng thành, ong chúa chọn ngày lành tháng tốt để đẻ ong đực và chúa non, chuẩn bị cho mùa chia đàn, thành lập thêm một doanh nghiệp mới - mà con người gọi là công ty thành viên.

Ong đực không làm gì khác ngoài chức năng giao phối - một thứ nghĩa vụ và quyền lợi của đàn ông. Một nhiệm vụ rất vinh quang cho sự sinh tồn nòi giống nhưng cũng đầy bi kịch, có nghĩa là sau một phút huy hoàng rồi... chết ! Nhưng để được giao phối với ong chúa, chúng phải tổ chức một cuộc thi tài vô cùng nghiệt ngã: đàn ong đực bay theo ong chúa hàng chục giờ trên độ cao ba mươi mét, cuối cùng chỉ một con thắng cuộc, sau đó tất cả đều chết. Được cũng chết, không được cũng chết! Có lẽ cảm thông được số phận của ong đực nên cánh ong thợ không bao giờ bươi móc, trù dập hoặc kiểm điểm chúng chỉ biết ăn không ngồi rồi để toan tính chuyện dâm ô.

Ong thợ ngoài nhiệm vụ phát triển kinh tế kết hợp với an ninh quốc phòng, chúng còn rất giỏi trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật. Có thể nói mỗi con ong thợ là một diễn viên múa rất tài hoa. Kỹ sư Thái nói rằng mỗi điệu múa của chúng có một ngôn ngữ riêng, ví dụ như trên đường đi lấy mật, chúng nhảy điệu tango; khi phát hiện hoa tràm, chúng nhảy điệu slow; khi gặp con người, chúng chuyển sang điệu lambada...

Ông Ba Rựa làm nghề gác kèo ong ở U Minh gần sáu chục năm, năm nay ông đã gần chín mươi tuổi, lưng còng, sức yếu nhưng vẫn không chịu bỏ nghề. Thậm chí đến mùa ăn ong, ông bỏ nhà vô rừng cất chòi ở, mặc cho con cháu khóc lóc năn nỉ ông về, ông vẫn ở miết trong rừng dù cháu con ông có thừa sức tạo cho ông cuộc sống an nhàn sung sướng. Cuối cùng ông nghiệm ra một điều: cái mà ông mê không phải là tổ ong hay mật ong mà chính là cái điệu múa của con ong trong mùa đi lấy mật. Ông nói chúng múa đẹp đến nỗi bắt mình cứ nhìn theo, lội theo, quên cả rắn hổ dưới chân…

Kèo ong, ai gác?

Tôi được mời dự một cuộc hội nghị của Đoàn Phong Ngạn với gần một trăm người làm nghề gác kèo ong. Hỏi ra, hầu như không có ai khẳng định rằng cái nghề gác kèo ong nuôi sống được gia đình. Nhưng rốt cuộc, chẳng những họ không bỏ được nghề mà còn dốc tâm truyền lại cho con cháu, dù biết rằng rừng U Minh mỗi ngày cứ thu hẹp lại, hoa tràm cứ tiếp tục nghèo đi. Trong hội nghị này có mấy người khách quốc tế tới tham dự và phát biểu ý kiến trao đổi về nghề gác kèo ong, ông Vincen - một chuyên gia nghiên cứu nghề nuôi ong của thế giới, đại diện cho Uỷ ban khoa học kỹ thuật vì Việt Nam của Hà Lan đang đầu tư cho chương trình nghiên cứu nhằm hoàn thiện nghề nuôi ong gác kèo ở U Minh - nói: nghề gác kèo ong cổ truyền ở U Minh là một nghề độc đáo, độc đáo cả về kỹ thuật lẫn nghệ thuật mà cả thế giới không có.

Nghe ông nói, tôi cố đi tìm hiểu xem ông tổ của nghề gác kèo ong là ai và vì sao gọi là Đoàn Phong Ngạn. Cuối cùng cũng không ai biết được, kể cả người cao tuổi nhất là ông Ba Rựa. Ông Ba Rựa chỉ kể đại khái rằng ngày xưa, vài trăm năm trước, người ta phát hiện ra rằng ong mật chỉ làm tổ trên những cây tràm bị gãy nằm nghiêng giống như cây kèo nhà. Thực tế đó đẻ ra cái nghề gác kèo ong, rồi nghề dạy nghề, kinh nghiệm tích luỹ dần qua nhiều thế hệ để đi đến sự hoàn thiện như một quy trình kỹ thuật. Ngày xưa rừng dày đặc, người ta phải dọn một khoảng trống cho ánh sáng chiếu vào rồi gác cây kèo trong đó. Khi đàn ong trinh sát đi tìm nơi xây tổ, gặp cái khoảng trống có khúc cây nằm nghiêng, xung quanh không có cỏ rác, không có ổ nhện, chúng dùng một điệu múa báo hiệu cho cả đàn bay đến. Hai mươi ngày sau, khi tổ ong đầy mật và mật đủ độ chín, người thợ rừng đến dùng cây đuốc bằng sậy khô và lá tràm tươi để un khói xua đàn ong bay đi, họ dùng dao cắt lấy gần hết phần mật và nửa phần ong non. Vài phút sau đàn ong trở lại, ong thợ lập tức xây lại nhà cửa và lấy mật mang về dự trữ. Cứ mỗi lần như thế, người thợ rừng thu được từ 5 đến 10 lít mật trên mỗi tổ ong. Mỗi vụ mùa thu được ba lần, mỗi năm chia làm hai vụ theo hai mùa bông tràm. Hồi xưa, người thợ rừng có thể thu được mỗi năm hàng ngàn lít mật.

Cũng không biết tự thuở nào, rừng U Minh hình thành các hiệp hội gác kèo ong gọi là Đoàn Phong Ngạn. Mỗi đoàn từ năm mươi đến bảy mươi người. Đoàn Phong Ngạn có luật riêng, dù luật không thành văn nhưng được tuân thủ rất nghiêm khắc, trong đó có những quy định về việc bảo vệ và phòng chống cháy rừng. Có lẽ hơn ai hết, dân Phong Ngạn là đội quân bảo vệ rừng nghiêm ngặt nhất mà không phải trả lương bởi họ yêu rừng như yêu sự sống của chính mình. Cũng chính vì lẽ ấy mà trận cháy rừng năm 1983, dân Phong Ngạn khóc như đám tang, nhất là những cụ già.

Mỗi năm, trước mùa ăn ong, các Đoàn Phong Ngạn họp nhau làm heo cúng rừng, khấn vái trời đất, thần linh phù hộ và thề sống chết có nhau. Ông Ba Rựa kể rằng hồi ông còn trai trẻ, có một người từ vùng trên xuống đây xin vào Đoàn Phong Ngạn nhưng lại có máu tham. Hành nghề chưa được bao lâu, ông ta đi ăn trộm tổ ong của người khác. Bị phát hiện, ông ta bị trục xuất ra khỏi đoàn. Nhưng trước khi đi, đoàn buộc ông ta phải bàn giao toàn bộ số kèo ong lại cho người bị trộm. Luật của Phong Ngạn là như vậy, cả đời ông Ba Rựa chỉ chứng kiến một trường hợp phạm luật duy nhất xảy ra.

Bây giờ, trở lại U Minh gặp những người thợ rừng cao tuổi, hỏi chuyện ăn ong ngày xưa, các cụ kể lại một cách say sưa hào hứng. Nhưng khi hỏi chuyện ăn ong bây giờ, các cụ thở ra đầy tiếc nuối, mắt đăm chiêu nhìn những cánh rừng lồi lõm như da beo.

Võ Tố Nhi

Theo Sài Gòn tiếp thị
  • 580