Với hồ chất thải rộng không tưởng và hàng ngàn người dân ung thư, nhưng ngành công nghiệp này vẫn tiếp tục tồn tại do nhu cầu sản xuất quá lớn.
Đó là loại kim loại có thể xứng đáng với biệt danh "quý hơn vàng", bởi lẽ nhu cầu sử dụng loại kim loại này toàn thế giới là cực kì lớn. Những nguyên tố như terbium được sử dụng trong sản xuất bòng đèn tiết kiệm điện, neodymium được dùng trong turbine khai thác sức gió, lanthanum được dùng trong sản xuất ắc quy cho ô tô chạy điện.
Loại đất hiếm mang tên Dysprosi.
Đất hiếm còn được sử dụng trong sản xuất điện thoại, máy tính, iPod, màn hình phẳng LCD, máy giặt, máy chụp X-quang và thậm chí cho hệ thống dẫn đường cho tên lửa và cả tàu vũ trụ. Ngành công nghiệp dựa trên những loại đất hiếm này ước tính có giá trị 2 tỷ tỷ Bảng Anh, chiếm 5% tổng GDP toàn cầu.
Đó là mỏ Bayan Obo tại Trung Quốc, mỏ đất hiếm lớn nhất trên thế giới, đã hoạt động suốt 5 thập kỷ nay.
Mỏ quặng đẩt hiếm khổng lồ Bayan Obo.
Đá ở đây chứa đầy đất hiếm lẫn trong quặng sắt. Với trữ lượng lớn như vậy, mỏ này là nguồn cung cấp đất hiếm hàng đầu trên thế giới. Việc sản xuất đồ điện của phương Tây dựa nhiều vào nguồn khoáng chất từ mỏ này. Năm 2008, Trung Quốc cung cấp 139.000 tấn đất hiếm cho ngành công nghiệp ở mọi nơi, chiếm 97% sản lượng đất hiếm trên toàn thế giới.
Như ở Trung Đông có dầu mỏ, thì ở Trung Quốc lại rất giàu đất hiếm. "Đây không chỉ là quê hương đất hiếm tại Trung Quốc, mà còn là của toàn thế giới", như một người làm việc tại khu mỏ này nhận định.
Nhưng ngành công nghiệp khai thác khổng lồ như vậy thì hẳn phải có mặt trái của nó. Chính chính sách quản lý môi trường lỏng lẻo tại đất nước tỉ dân này đã khiến cho việc sản xuất đất hiếm trở nên dễ dàng hơn, khi mà giá thành sản xuất chỉ gần bằng 1/3 với những đối thủ cạnh tranh khác. Theo một báo cáo về ngành công nghiệp đất hiếm năm 2010, đất nước này "gần như không có quy trình xử lý chất thải ô nhiễm nào đạt chuẩn".
Chất thải từ nhà máy xử lý đất hiếm.
Cũng như nhà máy hạt nhân, dự án khai thác đất hiếm cũng cần những biện pháp nghiêm ngặt để ngăn ngừa ảnh hưởng nặng nề của nó tới môi trường, theo lời của Peter Karamoskos, một nhà nghiên cứu về các biện pháp an toàn hạt nhân của viện Nghiên cứu An toàn Hạt nhân và Phóng xạ Úc.
Những ô nhiễm từ mỏ đất hiếm Bayan Obo này là lý do tại sao những nông dân tại những đồn điền trồng cây và những vùng đất canh tác quanh khu mỏ đều bỏ nhà cửa và ruộng vườn để tìm kiếm công việc mới. Như anh Liu, một cựu nông dân nay đã là công nhân khai thác quặng, nói rằng anh có thể kiếm được số tiền nhiều gấp 5 lần làm nông với công việc khai thác ở đây.
Một công nhân tại khu mỏ đất hiếm Bayan Obo.
Một công nhân khác, anh Guo Fu Qiang cho biết: "Tiền được trả khá là hậu hĩnh, nhưng chủ dự án không trả thêm đồng nào cho chúng tôi khi phải làm trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt cũng như môi trường cực kì độc hại, hơn nữa không ai trong chúng tôi có bảo hiểm tai nạn". Một người khác làm tại nhà kho nói rằng anh sẽ không bao giờ đặt chân vào khu mỏ kia hay những khu vực xử lý đất hiếm, dù có được trả bao nhiêu tiền đi chăng nữa: "Chẳng khác gì tự sát. Bạn làm việc ở đó thì sớm muộn gì cũng bị ung thư mà chết".
Không rõ là làm ở nhà kho thì sống lâu hơn được bao lâu, khi mà toàn bộ môi trường xung quanh khu mỏ khổng lồ này đều nhiễm độc nặng.
Đúng vậy, nguồn thu nhập ấy cũng có cái giá đắt khác phải trả, một môi trường bị hủy hoại hoàn toàn. Khu dân cư cũng như các khu vực xung quanh dần bị ô nhiễm. Toàn bộ vùng lân cận trở thành khu vực chết, những cỗ máy chế biến quặng được vứt đó đây khiến cho toàn bộ vùng đất gợi lên cảm giác tan hoang sau một cuộc chiến.
Phía Bắc Trung Quốc, gần biên giới Mông Cổ, một hồ chất thải tồn tại nhiều thập kỷ nay đang đe dọa tới nguồn nước sông Hoàng Hà, nguồn nước quan trọng của hơn 150 triệu dân.
Tại tỉnh Quảng Đông phía đông nam Trung Quốc, người ta đang cố gắng cải tạo những cánh đồng lúa và những suối, kênh nước tại đây, những thứ dã bị hủy hoại bởi nguồn acid cực mạnh rò rỉ từ những khu khai thác đất hiếm gần đó.
Chính quyền Trung Quốc vẫn liên tục từ chối những mối lo ngại mà cộng đồng quốc tế, cũng như Tổ chức Thương mại Thế giới nêu ra, rằng những hậu quả để lại từ việc khai thác đất hiếm tới môi trường sẽ cực kì nặng nề.
Toàn bộ vùng lân cận của khu mỏ này trở thành khu vực chết. (Ảnh: Kate Davies).
Tất cả những ngôi làng nằm giữa thành phố Bao Đầu và sông Hoàng Hà đều đã được sơ tán và tái định cư khi có những báo cáo cho rằng tỉ lệ ung thư tăng cao đột biến, mà nguyên nhân không gì khác chính là do việc khai thác và tinh chế đất hiếm.
Những nhà máy xử lý những loại kim loại này thải ra rất nhiều loại chất thải độc hại, dễ thấy nhất là thorium phóng xạ nặng. Hàng tấn acid sulfuric đậm đặc được sử dụng để phá vỡ cấu trúc hóa học của quặng đất hiếm, từ đó mới có thể tinh chế được đất hiếm nguyên chất. Những thứ chất thải kinh dị đó được thải hết vào một hồ chứa gần sông Hoàng Hà, ngay ngoại ô phía Đông thành phố Bao Đầu, một hồ chứa rộng tới hơn 10km2.
Một hồ lớn rộng khuất tầm mắt, chứa đầy những chất thải nhầy nhụa, đen đúa và độc hại tột cùng. Bên bờ là hàng tá những đường ống thải vẫn đều đặn đổ xuống hồ những phần thừa từ chu trình xử lý đất hiếm của những nhà máy gần đó. Mùi sulfur nồng nặc kèm theo những âm thanh ồn ào của những chiếc ống xả thải không ngớt hoạt động, làm cho nơi đây mang lại cảm giác của một địa ngục trần gian.
Bạn có thể nhìn thấy hình ảnh hồ chất thải này từ Google Earth, và nếu bạn phóng to lên, bạn sẽ thấy những đường ống bên bờ hồ, được nối từ những nhà máy xử lý đất hiếm.
Thứ chất thải ấy độc hại thì không phải bàn tới rồi, nhưng những thành phần phóng xạ như thorium trong đó là nguyên nhân dẫn đến bệnh ung thư lá lách, phổi và nhiều bệnh khác nếu con người ăn phải loại nước bệnh tật đó. "Trước khi những nhà máy ấy được xây dựng nên, nơi đây là những cánh đồng bạt ngàn dưa hấu, cà chua và cà tím", một trong những người dân còn bám trụ nơi đây, Li Guirong thở dài nói.
Tất cả bắt đầu từ năm 1958, khi mà Công ty Sắt và Thép Bao Đầu bắt đầu khai thác, sản xuất những loại đất hiếm nơi đây. Và cũng từ khi ấy, cái hồ chất thải này bắt đầu hình thành.
Đến cuối những năm 1980, mùa màng nơi đây bắt đầu tàn lụi. "Mùa màng có hoa, nhưng đến khi kết quả thì sản phẩm thường bị teo nhỏ, thậm chí là có mùi hôi thối nữa". Mười năm sau, dân làng đã phải chấp nhận thực tại rằng hoa màu không thể mọc lên tại nơi đây nữa. Làng Xinguang Sancun, cùng với nhiều ngôi làng gần những nhà máy tinh chế đất hiếm kia, đã dừng hoạt động trồng trọt.
Cây trong khu vực còi cọc, thiếu sức sống.
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng nguồn cơn của mọi chuyện chính là đất hiếm và quá trình khai thác, chế biến đất hiếm kia. Cư dân của thành phố Bao Đầu, "thủ đô đất hiếm của thế giới", đã phải hít thứ không khí chứa đầy acid sulfuric, bụi than suốt nhiều năm trời. Động vật nuôi chết, mùa màng không còn khiến người dân bỏ nhà cửa, dân số thành phố từ con số 2.000 giảm xuống chỉ còn vài trăm người.
Nhiều người dân còn lưu lại nơi đây phàn nàn rằng họ nhiễm rất nhiều bệnh tật: đau tứ chi, tiêu chảy, loãng xương và các vấn đề tim phổi. Gần như mọi gia đình nơi đây đều nhiễm bệnh.
Chính phủ không trợ giúp gì nhiều trong việc này. Họ được hứa hẹn đền bù nhưng cũng chưa đầy đủ và thỏa đáng. Việc tái định cư cũng được nhắc tới, nhiều khu chung cư đã được dựng lên cách chỉ vài kilomet với khu nhà cũ của họ.
Đường ống dẫn chất thải ra ngoại thành thành phố.
Nhưng những tòa nhà ấy gần như vẫn trống trơn. Chính phủ yêu cầu người dân mua quyền ở tại những tòa nhà đó, nhưng những chúng sẽ không được truyền tiếp cho đời con cháu của họ.
Một số người cố gắng kiếm lời từ những chất thải trong hồ kia, bởi lẽ những chất thải ấy vẫn còn lưu giữ lại phần nào đất hiếm, những phần đó sẽ được bán lại cho nhà máy tái xử lý với giá 300 USD/tấn.
Nhưng chính phủ đã đặt lệnh ngăn cấm chuyện khai thác và bán lại số chất thải trong hồ. Một số lượng người đã bị đem ra xét xử với mức án lên tới 10 năm tù vì hành vi này.